Kính chuyển quý vị xin tiếp phổ biến S.O.S, lần xâm lược thứ 15, với hình thức Hán
hoá, tối thâm độc với sự tiếp tay, đặc biệt tích cực, cuả đám thaí
thú hăngrô CSVN, sau khi bị TC cấy sinh tử phù, đã hiện rõ nguyên hình
là kẻ nội thù cuả dân tộc... Lại ngàn năm tăm tối điêu linh, gần kề,
khó tranh́ nếu sĩ phu Nam VN cam tâm khuất phục thù trong giặc ngoaì, ht
14 lần xâm lược nước Việt của giặc phương Bắc
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã
có 14 lần các triều đại phương Bắc xua đại quân xâm lược toàn diện nước Việt.
1. Cuộc xâm lược của nhà Ân
Theo sách vở Trung Hoa, năm 1218 TCN, Ân Cao Tôn đã đánh Quỷ
Phương, vùng Đồng Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, phía tả ngạn sông
Dương Tử. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn ‘không thắng’. [Nhà Ân còn được gọi là Nhà Hậu
Thương].
Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước
ta ba năm và đã bị đánh bại.
Như thế, theo Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3200 năm, dân Việt Lạc
đã là một quốc gia vững mạnh. Nước nầy đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng
xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre... đã đúc được ngựa sắt, roi
sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ... và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến
thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng.
[Vào thời kỳ nầy, tộc Hoa chưa thành hình. Phải hơn 100 năm sau,
bộ lạc Chu mới gom góp các bộ lạc du mục khác ở vùng Thiểm Tây, và thành lập
Nhà Chu. Từ đó, tộc Hoa mới thành hình và phát triển].
2. Cuộc xâm lược của nhà Tần
Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai
tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay thuộc tỉnh Hồ Nam,
Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh
chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa.
Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết
quá nửa, Đồ Thư bị giết.
Theo cách hành quân của Trung Hoa, mỗi người lính đem theo một phu
phục dịch. Số người vận chuyển lương thực cũng không được kể là lính. Vì vậy, số
người Trung Hoa xâm nhập có thể nhiều gấp 3 lần con số quân lính được kể tới,
dầu là con số trung thực.
3. Cuộc xâm lược của nhà Tây Hán
Năm 181 TCN, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm
phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy
thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc. Sau
đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa (!).
4. Cuộc xâm lược của nhà Đông Hán
Năm 30 SCN, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt
Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu bà Trưng Trắc là Thủ Lãnh.
Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc,
chiếm lại 65 thành.
Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức
mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ xác định vị trí, tình
hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm lại 65 thành, và đánh
bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán.
Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng
Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của
Trung Hoa, xuống tới Hải Vân... Và Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh
lực của ‘thiên triều’.
5. Cuộc xâm lược của nhà Lương
Năm 541, Lý Bôn đánh đuổi quân trú đóng Trung Hoa, giành độc lập.
Năm 544 ông xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn
Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.
Đầu năm 545, nhà Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem 8 vạn
quân sang xâm lược nước Vạn Xuân. Chính quyền độc lập lúc này còn non trẻ, lực lượng
quốc phòng chưa được phát triển và củng cố. Lý Nam Đế qua kinh nghiệm hai lần
đánh thắng giặc xâm lược, vẫn chủ trương chỉ dựa vào quân chủ lực với các thành
lũy cố định, đánh dàn trận đối diện nhau nên không địch nổi quân địch đông và
mạnh. Quân Việt bị thua rút về cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Quân Lương do Trần Bá
Tiên chỉ huy tiến đánh chiếm được thành Tô Lịch.
Tháng 10/546, Lý Nam Đế kéo quân ra vùng hồ Điển Triệt (đầm Vạc,
Vĩnh Yên). Một đêm nước sông lên to, chảy mạnh vào hồ, Trần Bá Tiên thừa cơ
tiến đánh bất ngờ. Quân Vạn Xuân không kịp phòng bị nên tan vỡ. Các cánh quân khác
cũng không chống được giặc phải rút vào hoạt ở vùng núi quận Cửu Chân. Cuộc
kháng chiến của Lý Nam Đế thất bại. Ông giao binh quyền cho Triệu Quang Phục
rồi bị ốm chết.
Năm 550, nhân bên nhà Lương có biến loạn, quân Lương phải rút đại
quân về nước, Triệu Việt Vương tổ chức phản công lớn, quét sạch quân giặc, giải
phóng hoàn toàn đất nước. Nước Vạn Xuân giữ được độc lập trên nửa thế kỷ nữa.
6. Cuộc xâm lược của nhà Nam Hán
Từ năm 906, Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người
Trung Hoa. Truyền được 3 đời.
Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Tháo kéo quân
xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền, đã đại thắng quân
Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung cũng kéo quân
tiếp ứng theo đường bộ. Nghe tin, ông khóc và rút về.
7. Cuộc xâm lược của nhà Tống (lần 1)
Năm 981, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo
hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn
tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Lê Đại Hành. Với một trận Chi Lăng, quân ta phá
tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng
rút lui.
8. Cuộc xâm lược của nhà Tống (lần 2)
Năm 1072, vua Lý nhân Tôn lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc
quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt.
Năm 1075, Lý thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng
châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc], nay thuộc Quảng
Đông, Quảng Tây.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân
sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới
hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về !
9. Cuộc xâm lược của Mông Cổ (lần 1)
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở vùng Vân Nam.
Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ
Á sang Âu.
Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai) đem
3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long,
đốt phá và giết mọi người trong thành. [Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3
của Nhà Nguyên, từng tham gia các trận đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan,
Bagdad, và diệt nước Đại Lý].
Vua Trần thái Tôn lo sợ, hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần thủ Độ khẳng
khái. “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”.
Chỉ mấy ngày sau, vua Trần thái Tôn dẫn quân phản công, đánh thắng
quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn bị quân
ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa.
10. Cuộc xâm lược của nhà Nguyên (lần 2)
Năm 1271 Hốt Tất Liệt (Khubilai) trở thành Đại Hãn của đế quốc
Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 1279, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung
Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 quốc gia từ Á sang Âu.
Năm 1283, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với
các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt.
Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại
Việt chỉ có 20 vạn.
Trước tình hình nguy biến, nhiều người muốn hàng hoặc tìm kế hoãn
binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư cương quyết xin đem quân
trấn giữ.
Vua Trần Nhân Tôn liền triệu tập các bô lão trong dân tại điện
Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin Đánh !
Trước thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam,
quân Nguyên từ Chiêm Thành cũng đã chiếm Nghệ An.
Vua Nhân Tôn lại lo sợ, ‘muốn hàng để cứu muôn dân’. Nhưng Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp. “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê
hương Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !”
Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được Thăng Long. Triều
đình ta chạy về Thanh Hóa.
Khi đó tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi.
“Có muốn làm Vương không ?” Trần Bình Trọng quát to. “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn
hơn làm vương đất Bắc !”
Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa
Hàm Tử.
Sau đó, tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra
đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, rồi dùng phục binh chiếm lại Thăng
Long.
Hưng Đạo Vương thì đem quân đánh ở Tây Kết, và giết được Toa Đô.
Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.
Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể
rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên
thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa. Thoát Hoan trốn thoát về
Tàu.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1697, quân Nguyên kéo qua 50
vạn và sáu tháng sau, chỉ còn 5 vạn rút về.
11. Cuộc xâm lược của nhà Nguyên (lần 3)
Cuối tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan lại theo hai đường thủy bộ, kéo
thêm 50 vạn quân xâm lấn, với hơn 800 chiến thuyền, cùng với đoàn tàu 100 chiếc
chở lương thực. [Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư]. Phía Đại Việt có khoảng từ 20
tới 30 vạn quân.
Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường liên lạc,
nên tập trung ở Vạn Kiếp.Bộ chỉ huy của Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng.
Tướng Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn và phá tan đoàn
thuyền lương.
Tháng 3 năm 1288, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo
sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt xuống sông Bạch
Đằng (như Ngô Quyền năm 938).
Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc
Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và
Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành.
12. Cuộc xâm lược của nhà Minh
Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc
Minh, với Trương Phụ, bắt đầu chính sách đồng hóa dân ta với dân Tàu...
Năm 1418, nông dân Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng
là Bình Định Vương, gởi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân
giặc cướp nước.
Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định
Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long.
Cuối năm 1427, giặc Minh lại đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại
Việt. Đạo quân do Liễu Thăng cầm đầu với hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân
do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu
Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu.
Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh.
Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết
thư cầu hòa, và xin cho chúng rút quân về Tàu. Số tù binh, hàng binh và vợ con được
thả về Tàu lên hơn 10 vạn người.
13. Cuộc xâm lược của nhà Thanh
Năm 1788, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo,
tiến đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long.
Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế, được tin, tính chuyện tiến
đánh. Quan quân xin Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung.
Hoàng đế Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ
thêm lính. Tất cả được 10 vạn quân và 100 con voi.
Hoàng đế Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 sẽ kéo quân đi, và hẹn
ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long.
Trận đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không
kịp báo tin cho nhau. Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thuỷ, tới
Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi... Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ
Nghị không kịp mặc giáp, lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật
sông Hồng. Các đạo quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. Tất cả đều chỉ
trong 5 ngày.
14. Cuộc xâm lược Việt Nam năm 1979
Chiến tranh biên giới 1979, hay thường được gọi là Chiến tranh
biên giới Việt - Trung năm 1979 là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nổ ra vào
ngày 17/2/1979 khi Trung Quốc đưa quân xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên
giới giữa 2 nước.
Chiến tranh biên giới Việt - Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng
kéo dài giữa hai quốc gia, kéo dài trong chừng một tháng với thiệt hại nặng nề về
người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố
hoàn thành rút quân vào ngày 16/3/1979, sau khi chiếm được các thị xã Lạng Sơn,
Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn vùng biên. Mục tiêu của Trung Quốc buộc
Việt Nam rút quân khỏi Campuchia không thành, nhưng cuộc chiến để lại hậu quả
lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và quan hệ căng thẳng giữa hai nước. Xung
đột vũ trang tại biên giới còn tiếp diễn thêm 10 năm. Hơn 13 năm sau, quan hệ
ngoại giao Việt-Trung chính thức được bình thường hóa.
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (= Đồng trụ
đến giờ rêu vẫn mọc)
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng (= Bạch
Đằng thuở trước máu còn loang)
Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng
__._,_.___
No comments:
Post a Comment