Chân thành cảm ơn anh đã gửi bài
viết này.
nguyenvinhchau
On Wednesday, December 28, 2016 7:04 PM, "trung do [GoiDan]" <>
wrote:
Đặng
Chí Hùng (Danlambao) - Trong lịch sử dân
tộc, đã không thiếu những lần đất nước Việt Nam gặp sự xâm lăng của giặc Tầu từ
phương Bắc. Và cũng chính từ những lần xâm lăng ấy, dân tộc Việt Nam đã xuất
hiện những Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản, Quang
Trung… để đánh bại ngoại xâm, đem lại tự do cho đất nước. Để có được những
chiến thắng lẫy lừng như Hàm Tử, Chương Dương, Chi Lăng... những vị anh hùng
dân tộc đã biết cách đoàn kết tất cả sức mạnh của dân tộc dưới ngọn cờ chính
nghĩa, ngọn cờ của đấu tranh, ngọn cờ của dân tộc. Sức mạnh đấu tranh của cả
dân tộc khi hội tụ dưới một ngọn cờ đã đem lại sức mạnh vô biên để chiến thắng
kẻ thù hung bạo.
Cho đến lịch sử cận đai, dân tộc Việt Nam vì sự đô hộ của thực dân
Pháp, tham vọng mở rộng vòng quyền lực của cộng sản mà đứng đầu là Liên Xô,
Trung cộng đã dẫn đến tình cảnh non nước chia ly, lòng người đau xót. Cả dân
tộc vướng vào một trong những giai đoạn mất mát đau thương nhiều nhất trong
lịch sử cũng bởi sự thèm muốn quyền lực của cộng sản và sự đấu tranh chống lại
sự độc tài đó của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Dân tộc bị chia ly bởi hai bờ sông
Bến Hải và cũng từ đó có hai ngọn cờ cho Việt Nam. Cờ đỏ sao vàng cho Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) phía Bắc và cờ vàng 3 sọc đỏ của VNCH phía Nam. Nói
đúng ra thời kỳ này có 3 lá cờ tồn tại, ngoài cờ vàng, cờ đỏ còn có cờ xanh đỏ
của Mặt trận Dân Tộc GPMN Việt Nam, nhưng trên thực tế như đã biết đây là cánh
tay nối dài, hay nói cách khác là đứa con của đảng cộng sản (cờ đỏ) và tồn tại trong
thời gian ngắn, thực chất chỉ là bù nhìn cho VNDCCH nên không cần xét tới.
Trong bài viết này, tôi xin gửi tới bạn đọc sự thật về lá cờ lịch sử của dân
tộc đã bị đảng cộng sản bôi nhọ là “Cờ ba que xỏ lá”, trong
khi đó, lá cờ vay mượn từ Trung cộng lại được đảng cộng sản tô vẽ là cờ dân
tộc. Chính sự mập mờ, không cho người dân biết rõ lịch sử lá cờ dân tộc của
đảng cộng sản đã khiến bao thế hệ phải hi sinh oan uổng cho những âm mưu bẩn thỉu
của cộng sản.
I. Lịch sử của lá cờ Vàng ba sọc đỏ của dân tộc:
Cho đến hôm nay, rất nhiều hệ người Việt Nam vẫn bị nhầm về lịch
sử của lá cờ Việt Nam Tự Do nền vàng ba sọc đỏ, họ cứ tưởng rằng lá cờ này mới
có từ thời chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Và rất nhiều người lầm tưởng như cộng sản
tuyên truyền rằng đó là lá cờ “Ngụy”. Nhưng thực chất lá cờ vàng 3 sọc đỏ chính
là lá cờ xuất phát lâu đời hơn rất nhiều cờ đỏ sao vàng của cộng sản và còn là
lịch sử của dân tộc.
Nguồn gốc sự hình thành lá cờ vàng:
Theo
học giả Nguyễn Hữu Quang trong tác phẩm "Hồn Nước Trong
Kinh Dịch và Luận Giải Về Lẽ Biến Dịch của Lá Cờ Việt Nam Quốc Gia" đăng
trên báo Cộng Đồng, số 3 tháng 12, 1992, tại Ottawa, Canada, thì vào năm 40 Dương Lịch, Hai Bà Trưng đã "đầu voi phất ngọn
cờ Vàng" đem quân đánh Tô Định lấy
được 65 thành trì để lập quốc xưng vương. Sau này vào thời nhà Nguyễn, triều
vua cuối cùng của nước ta, hai sọc đỏ được thêm vào lá cờ vàng.
Trong thời Bắc thuộc,
khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống quân Tô Định năm 40, Hai Bà Trưng đã mặc áo
giáp vàng cưỡi voi ra trận dưới bóng cờ vàng.
Suốt gần một ngàn năm Bắc thuộc, lá cờ dân tộc dưới hình thức này hay hình thức
khác vẫn xuất hiện trong những cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán như của Bà
Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, nhưng phải đợi đến thời Ngô Vương Quyền đánh
tan quân Hán trên sông Bạch Đằng gây dựng nền độc lập năm 938, lá cờ dân tộc
mới lại phất phới tung bay. Trải qua các triều đại tự chủ tiếp theo như Đinh, Lê,
Lý, Trần, nước ta luôn có quốc kỳ hình vuông hoặc chữ nhật gồm có nhiều màu
viền quanh theo màu của ngũ hành, ngoài cùng là tua răng cưa và có hình con
rồng hoặc một chữ Hán chỉ tên triều đại ngay chính giữa. Để chứng minh cho điều
này, xin điểm qua các dẫn chứng sau đây.
Thứ
nhất, rrên báo Hà Nội mới của chính quyền cộng sản
có bài nói về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống xâm lược đã có post tấm ảnh mô
tả cờ vàng của Hai Bà Trưng.
Điều này cho thấy không có nghi ngờ gì về mặt lịch sử của lá cờ
vàng thời Hai Bà đánh đuổi quân xâm lược phương Bắc.
Thứ
hai, mặc dù là website được lập bởi đội ngũ dư luận
viên thân cận của chủ tịch nhà nước cộng sản Trương Tấn Sang, nhưng website này
đã có bài viết công nhận cờ vàng là lịch sử của dân tộc. Lá cờ đó có từ thời
Hai Bà Trưng, có lịch sử lâu đời hơn cờ đỏ của cộng sản: “Cờ vàng” theo đúng ý
nghĩa lịch sử dân tộc Việt Nam là một hình ảnh đẹp, thấp thoáng từ thời hai vị
nữ anh hùng dân tộc Hai Bà Trưng: “phất ngọn cờ vàng”, đứng lên đánh đuổi quân
Tàu vào năm 40 sau Công nguyên.”
Qua đây cho thấy chính cộng sản cũng phải công nhận sự việc cờ
vàng có trước cờ đỏ và cờ vàng là biểu trưng xuất phát từ lịch sử của anh hùng
dân tộc Hai Bà Trưng chống quân xâm lược.
Thứ ba, cũng cần phải nhắc đến cuốn sách “Đại Nam quốc sử diễn
ca” - Phạm Đình Toái và Lê Ngô Cát đã được nhà in Thực nghiệp- Hà Nội,
1934 có viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng có đoạn như sau: “...Theo kế của nàng,
Triệu Quốc Đạt dựng cờ khởi nghĩa, dưới trướng có đến hàng chục hổ tướng, quân
đông đến năm mươi vạn người. Ẩu nữ lại dùng sắc vàng chế ra
quần áo, màu cờ riêng để quân mình khỏi lẫn với quân Ngô. Một thời gian
sau, thanh thế của hai anh em trở nên lừng lẫy, quân đội của họ đã nhổ sạch các
đồn lũy của quân Tàu phía Bắc Na Sơn. Ẩu nữ được mọi người gọi tôn là Bà Vương,
tiếng tăm vang khắp cõi Giao Chỉ. Thái thú quận Cửu Chân nghe tin hốt hoảng
phải cho người phi báo về Tàu xin viện binh sang đánh dẹp. Bà Vương liền thẳng
đường rong ruổi tiến ra Cửu Chân, đi đến đâu yết bảng an dân đến đó, dân chúng
dọc đường kéo đến đón rước đông như kiến cỏ.”
Như vậy qua đây có thể
thấy, cờ vàng chính là lá cờ có nguồn gốc xuất phát lịch sử xa xưa, gắn liền
với ý chí không chịu khuất phục giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam mà minh
chứng bằng bốn câu thơ trong “Đại Nam quốc sử diễn
ca”:
Đầu voi phất ngọn cờ vàng,
Sơn thôn mấy cõi chiến
trường xông pha
Chông gai một cuộc quan
hà,
Dù khi chiến tử còn là
hiển linh.
Lịch sử
cờ vàng có từ Hai Bà Trưng và cho đến khi triều
Nguyễn, lá quốc kỳ mới được chính thức thiết kế lại một cách cẩn thận hơn,
nhưng vẫn lấy nền vàng làm chủ đạo. Vua Gia Long (1802-1820) dùng màu vàng tiêu
biểu cho vương quyền và lá cờ vàng tiêu biểu cho quốc gia Việt Nam. Từ năm 1863
cho đến năm 1885, triều đình Huế dụng cờ Long Tinh Kỳ (nền vàng, viền xanh,
chấm đỏ lớn ở giữa) làm cờ hiệu. Sau đó là Vua Thành Thái (1/2/1889). Lá cờ
vàng ba sọc đỏ lấy làm cờ hiệu tế cho cũ là Đại Nam Kỳ (nền vàng viền lam, chấm
đỏ lớn ở giữa đã được dụng từ năm 1885 đến năm 1890). Lá cờ vàng ba sọc đỏ này còn
được tiếp tục sử dụng cho đến khi vua Duy Tân kháng Pháp bất thành vào năm 1916
và được thay thế bằng lá cờ Long Tinh (có nền vàng và một vạch đỏ lớn nằm vắt
ngang, phần đỏ nhiều hơn phần vàng).
Vua Khải Định (1916-1925) thêm hai vạch đỏ tượng trưng cho hình
rồng vào giữa lá cờ vàng thành Cờ Long Tinh. Năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim
thêm một vạch đỏ đứt khúc vào giữa hai vạch đỏ của cờ Long Tinh thành cờ Quẻ Ly
(Quẻ thứ tư trong Bát Quái Đồ theo Kinh Dịch, tượng trưng cho mặt trời, văn
minh). Năm 1948, Hoàng Đế Bảo Đại một lần nữa ra lệnh nối liền vạch đứt khúc ở
giữa để cờ Quẻ Ly trở thành cờ Quẻ Càn (Quẻ thứ nhất trong Bát Quái Đồ, tượng
trưng cho trời, quyền lực) và vào ngày 2 tháng 6, 1948, chính phủ lâm thời
Nguyễn Văn Xuân chính thức dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ của quốc gia Việt
Nam. Từ đó, lá quốc kỳ vàng ba sọc đỏ đã tung bay khắp mọi miền đất nước từ Ải
Nam Quan đến Mũi Cà Mau.
Để chứng minh hành trình lịch sử của lá cờ vàng chúng ta có những dẫn chứng như sau:
Thứ
nhất, lịch sử của các lá cờ này đã được blog Zings
được sự đồng ý của nhà cầm quyền cộng sản công nhận trong một bài viết “Cờ Việt Nam qua các
thời kỳ”:
Một Website khác của sinh viên nhà nước cộng sản cũng đã cho đăng
lại bài viết này:
Thứ
hai, trên một website độc lập nói đến cờ của các
quốc gia trên thế giới đã có phần thống kê lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ và
cho biết lịch sử chính xác của lá cờ vàng thông qua phần lịch sử “Cờ và Tiền tệ” tại
Việt Nam. Bạn đọc có thể tham khảo tại đường link trích dẫn:
Qua đây chúng ta có thể thấy hai điều: Điều thứ nhất đó là lá cờ
có nền Vàng có nguồn gốc lịch sử lâu đời của dân tộc; thứ hai đó là lá cờ nền
Vàng 3 sọc đỏ xuất hiện chính thức lần đầu từ thời Vua Thành Thái cho đến Khải
Định. Và lần thứ hai thì lá cờ vàng xuất hiện là thời kỳ Vua Bảo Đại cho đến đệ
I, Đệ II Cộng Hòa. Nhưng xen lẫn giữa hai thời kỳ đó cũng có một lá cờ vàng 3
sọc hình quẻ ly của chính phủ ông Trần Trọng Kim bị cộng sản cướp đoạt trái
phép.
Như chúng ta đã biết, sau khi Mỹ thả 2 quả bom nguyên tử xuống đất
Nhật, san bằng 2 thành phố Hiroshima ngày 6 tháng 8 năm 1945, và Nagasaki ngày
9 tháng 8 năm 1945, Hoàng Đế Nhật Bản phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vào
ngày 15 tháng 8 năm 1945. Nhờ vậy, đại chiến thế giới lần II, do phe Phát Xít
Đức, Ý, Nhật chủ xướng từ năm 1939 được coi là chấm dứt hoàn toàn trên cả 5
Châu: Âu, Phi, Á, Úc, và Mỹ.
Khi kết thúc đại chiến thế giới lần II, chính phủ Mỹ hỗ trợ Cao
trào các Tiểu nhược quốc Thuộc địa trên toàn Thế giới, đang bị các nước Thực
dân Đế quốc da trắng đô hộ cai trị áp bức, vùng lên giành lại Độc lập Tự do cho
Dân tộc mình, để xây dựng Thể chế Chính trị theo mô thức Dân chủ Tự do Tư bản.
Trong cùng lúc đó, Khối Quốc tế Cộng sản do Liên Xô lãnh đạo cũng
nhân cơ hội này, dùng các tay sai người bản xứ lôi cuốn các nhóm công nông vô
sản dùng bạo lực hăm dọa song hành với phương thức tuyên truyền xảo quyệt, buộc
quảng đại quần chúng dân lành phải đi theo dưới mỹ từ làm Cách mạng giải phóng
quê hương, để bành trướng thế lực nhằm thực hiện sách lược nhuộm đỏ Toàn cấu và
tiến lên “Thế giới đại đồng”.
Trên thực tế Việt Nam đã được độc lập mà không cần cộng sản:
Tại Việt Nam, vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 (hai ngày sau khi quân
Nhật lật đổ Pháp nắm toàn quyền cai trị Đông Dương), Vua Bảo Đại được Vua Nhật
giúp tái lập Quốc Gia Việt Nam Độc Lập (thống nhất cả 3 miền Bắc Trung Nam)
trong Khối Đại Đông Á do Nhật chủ xướng. Ông Trần Trọng Kim đã được Vua Bảo Đại
cử làm Thủ Tướng thành lập chính phủ điều hành Quốc gia, và ban bố chương trình
hưng quốc vào ngày 8 tháng 5 năm 1945, trong đó quy định Quốc Kỳ là cờ Quẻ Ly,
Quốc Ca là bài “Việt
Nam minh châu trời Đông” của nhạc sĩ Hùng Lân.
Để chứng minh cho luận điểm này tôi xin đưa ra các bằng chứng sau
đây để khẳng định rằng nước Việt chúng ta không cần Hồ Chí Minh và đảng cộng
sản vẫn được độc lập như các nước khác.
Thứ
nhất, một đoạn văn trên website của tỉnh Thừa Thiên
Huế đã công nhận sự kiện Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam là có thật. Trong
bài giới thiệu về điện Kiến Trung có đoạn: “Ngày 9 tháng 3, Nhật
đảo chính Pháp và thỏa thuận trao trả độc lập cho Việt Nam. Hai ngày sau, 11
Tháng Ba vua Bảo Đại triệu cố vấn tối cao của Nhật là đại sứ Yokoyama Masayuki
vào điện Kiến Trung để tuyên bố nước Việt Nam độc lập. Cùng đi với Yokoyama là
tổng lãnh sự Konagaya Akira và lãnh sự Watanabe Taizo.” Đây là link
của bài viết: http://dulichhue.com.vn/new/vi/a4841/dien-kien-trung.html
Một website của đảng cộng sản cũng phải công nhận một sự thật lịch
sử hiển nhiên là Nhật đã chấp nhận trao trả độc lập cho Việt Nam thông qua
chính quyền của vua Bảo Đại.
Thứ
hai, chính quyền Liên Xô sau khi nhận được tin Nhật
trao trả độc lập cho Việt Nam đã phải thốt lên qua lời của Stalin ghi trong
cuốn sách có tên tạm dịch “Đường dài xã hội chủ
nghĩa”. Cuốn sách này là tổng kết những phát biểu về xã hội chủ nghĩa Liên
Xô và thế giới của Lê Nin, Stalin, Breznep... được viết bởi N. Badasov - một
nhà nghiên cứu lịch sử tại Liên Xô - đảng viên đảng cộng sản Liên Xô. Cuốn sách
tại trang 233 có viết về Stalin đã thốt lên: “Thật sự khó khăn cho hệ
thống xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam được người Nhật ưu ái”. Điều này càng
minh chứng thêm cho sự kiện chính quyền Nhật trao trả độc lập cho Việt Nam là
có thật.
Chính phủ của ông Trần Trọng Kim không phải chính phủ bù nhìn:
Chính phủ của ông Trần Trọng Kim được Hoàng Đế Bảo Đại thành lập
sau ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp và chỉ tồn tại trong một
thời gian ngắn, rất ngắn, từ ngày 17 tháng 4 năm 1945 đến ngày 25 tháng 8 năm
1945 kể cả thời gian xử lý thường vụ. Tổng cộng hơn bốn tháng. Chính phủ này
thường bị những người Cộng Sản và luôn cả các tác giả các sách giáo khoa hay
những nhà nghiên cứu chuyên môn ở miền Bắc thời trước và sau năm 1975 trực tiếp
hay gián tiếp gọi là bù nhìn, là Việt gian, là tay sai của Nhật. Nhưng sự thật
có phải như vậy hay không?
Thứ
nhất, sự việc minh chứng rõ rệt nhất cho một chính
phủ hợp hiến và không phải bù nhìn đó là việc chính quyền của ông Trần Trọng
Kim tồn tại được bốn tháng, rất ngắn ngủi nhưng đã làm được nhiều việc lớn như
điều đình thành công với người Nhật để họ trả lại toàn bộ ba xứ bắc-trung-nam,
thống nhất đất nước, chính phủ "có quyền tự trị khác hẳn với lời đồn rằng
chính phủ ông là bù nhìn". Điều này được thể hiện rất rõ trong cuốn “Một cơn gió bụi” của
chính ông Trần Trọng Kim - chương 4 - Ra Huế lập chính phủ (xuất bản năm 1949
tái bản năm 1969). Một chính phủ đi từ số không, trong vòng 4 tháng tồn tại,
không quân đội hùng mạnh mà chỉ thông qua đàm phán với Phát Xít Nhật đang hùng
mạnh để lấy độc lập, tự trị cho nhân dân có đáng được gọi là “bù nhìn” không?
Thực chất chỉ là luận điểm bôi nhọ và chụp mũ của cộng sản mà đó chính là ngón
nghề quen thuộc của cộng sản.
Thứ
hai, cho đến nay chính những người cộng sản cũng đã
phải công nhận một sự thật không thể chối bỏ đó là Chính phủ của ông Trần Trọng
Kim không phải là một chính quyền bù nhìn mặc dù họ chưa dám thừa nhận sự vu
khống của đảng cộng sản cho chính phủ của ông Kim. Trong một bài viết đăng trên
website của sở văn hóa tỉnh Nghệ An có link như sau:
Tác giả Lê Xuân Khoa trong bài viết của mình có tên “Huế năm 1945 và chính
phủ Trần Trọng Kim” đã viết: “Chính phủ Trần Trọng
Kim ra đời trong một hoàn cảnh rất tình cờ của lịch sử, không do kết quả tranh
đấu cho nền độc lập của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của một đảng phái hay một
phong trào chính trị nào. Sau gần một thế kỉ bị Pháp đô hộ, lần đầu tiên nước
Việt Nam được độc lập (dù mới chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu.”
Rõ ràng việc tác giả này đánh giá nước Việt Nam chúng ta được độc
lập (dù chỉ một phần) mà không phải hi sinh xương máu cũng cho thấy chính phủ
của ông Trần Trọng Kim là một sự công nhận đầu tiên chính phủ đó rất hợp hiến.
Tiếp sau đó tác giả Lê Xuân Khoa viết: “Chính phủ Trần Trọng
Kim ra đời trong những điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như
vậy. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp
cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ
Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:
1.
Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam.
2.
Thâu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.
3.
Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4.
Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
5.
Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.
6.
Thiết lập các Ủy ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải
tổ chính trị, hành chính và giáo dục.
Chỉ
trong thời gian bốn tháng (từ 17 - 4 đến 16 - 8), chính phủ Kim đã thực hiện
được gần hết chương trình này. Kết quả có thể được tóm tắt như sau:
Cứu
đói: Bộ Tiếp tế do bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm đầu nỗ lực điều động việc vận tải
thóc từ Nam ra Bắc. Lúc này, Pháp đã mất khả năng ngăn cấm việc tiếp tế gạo và,
nhờ sự can thiệp của chính phủ Kim, giới quân phiệt Nhật cũng không còn thi
hành chính sách độc đoán về sản xuất nông phẩm...”
Như vậy chỉ trong một thời gian ngắn chính quyền của ông Trần
Trọng Kim đã thực thi được những điều lớn lao mà một chính phủ đúng nghĩa không
phải bù nhìn đã thực hiện được. Ngay như công việc hết sức khó khăn là phần cứu
đói cũng đã thực hiện rất tốt thông qua đàm phán với Nhật. Vậy thì đây không
thể là chính phủ bù nhìn được. Tại sao chính phủ bù nhìn lại toàn làm được
những điều lợi cho dân cho nước? Đây là minh chứng cho sự bịp bợm của đảng cộng
sản nhằm bôi nhọ chính phủ của ông Trần Trọng Kim.
Có nhiều người sẽ thắc mắc một người có quốc tịch Mỹ, gốc Việt,
nguyên Phó viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn, tiến sĩ triết học như ông Lê Xuân
Khoa viết sẽ có phần “bênh vực” cho ông Trần Trọng Kim. Nhưng sự việc nó được
đăng tải trên một website của tình Nghệ An, của đảng cộng sản Việt Nam cho thấy
tình chính xác của bài viết.
Thứ
ba, cũng cần nhắc lại cuốn sách “Đường dài xã hội chủ
nghĩa” của tác giả N. Badasov đã giới thiệu ở trên. Chính tác giả cuốn sách
này khi đánh giá về lịch sử Việt Nam cũng có đoạn viết:
“Một
chính phủ ngắn ngủi của một người theo trường phái dân tộc như ông Trần Trọng
Kim đã nỗ lực làm được nhiều điều cho đất nước. Tiếc rằng nó không được hợp lắm
trong xu hướng phát triển của phong trào cộng sản...”
Đây là một mình chứng cho thấy người cộng sản Liên Xô không hề
đánh giá thấp công lao của chính quyền ông Trần Trọng Kim. Và người Liên Xô
không hề coi đây là một chính quyền bù nhìn như sự chụp mũ của cộng sản Việt
Nam.
Thứ
tư, trong cuốn sách Décolonisation du
Vietnam: Un Avocat Tðmoigne (Công cuộc giải thực dân của Việt Nam - Một
luật sư, hồi ký) (Paris: L’Harmattan, 1994), 62; Tác giả cuốn hồi ký bằng Pháp
văn này là luật sư Trịnh Đình Thảo, viết sau năm 1975 và trước khi ông mất năm
1986 nhưng tới năm 1994 mới được xuất bản ở Pháp, do trưởng nam của ông là luật
sư Trịnh Đình Khải đứng tên tác giả, trang 62,63 có viết:
“Khoảng
tháng 6 - 1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật
dứt khoát trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam Kỳ cho
Việt Nam, ông đã nói: "Quân đội Nhật đã đánh quân đội Pháp và công nhiên
hứa hẹn trả quyền tự chủ cho nước Việt Nam. Bởi vậy tôi không quản tuổi già và sự
khó khăn của hoàn cảnh mà đứng ra lập chính phủ. Tôi làm việc một lòng giúp
nước tôi, cũng như các ông lo việc giúp nước Nhật... Nếu các ông cho tôi là
người làm việc cho nước Nhật, việc ấy không phải là phận sự của tôi, tôi sẵn
lòng xin lui". Chỉ tiếc rằng vài tháng sau, lúc gần đạt được mục tiêu thì
Chính phủ Kim phải ra đi.”
Chính tuyên bố của ông Trần Trọng Kim đã cho thấy một sự thật là
ông không chịu làm việc cho Nhật mà chỉ làm một việc duy nhất là cho sự độc lập
cho dân tộc Việt Nam. Vậy càng có thể khẳng định sự thật chính quyền của ông
Kim không phải là chính phủ bù nhìn.
Bằng việc chứng minh tính hợp hiến của chính quyền của ông Trần
Trọng Kim chúng ta có thể thấy rằng cờ Vàng quẻ ly của chính phủ ông Kim chính
là bước tiếp nối cho lịch sử hào hùng của cờ vàng dân tộc.
Cờ vàng ba sọc đỏ xuất hiện lần thứ hai:
Từ năm 1920, Hồ Chí Minh đã là đảng viên của Đệ Tam Quốc Tế Cộng
Sản và từ đó được cộng sản Liên xô, Trung cộng huấn luyện, ủng hộ để trở thành
đảng viên nòng cốt thi hành kế hoạch bành trướng Chủ nghĩa Cộng Sản tại Đông
Nam Á bằng xương máu dân Việt. Lẽ ra Đảng cộng sản phải hợp lực với các đảng
phái khác chống lại nước Pháp thực dân, ủng hộ triều đình Huế thì Hồ Chí Minh
lại tuân lệnh quan thầy Liên xô, Trung cộng đấu tranh cho quyền lợi khối cộng
sản quốc tế. Thay vì hợp lực với triều đình Huế cùng các đảng phái quốc gia yêu
nước khác đánh đuổi quân Pháp thực dân thì Hồ Chí Minh đã ly khai với triều
đình Huế, lợi dụng cảnh "giậu đổ bìm
leo" để "đục
nước béo cò" cho tham vọng cá nhân, âm mưu cướp chính quyền ông Trần
Trọng Kim vào tháng 9 năm 1945 biến Đảng cộng sản Việt Nam thành một lực lượng
phản bội lại dân tộc.
Sau Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước, Hồ Chí Minh cùng Đảng
cộng sản chiếm đoạt miền Bắc, tiếp thu Hà Nội mới tổ chức lễ thượng kỳ đầu tiên
ngày 10 tháng 10 năm 1954 và đảng kỳ nền đỏ sao vàng chính thức trở thành quốc
kỳ của nước VNDCCH. Trong khi đó, Hoàng Đế Bảo Đại trị vì miền Nam dưới sự bảo
hộ của Pháp và dần dần được Pháp dân chủ sau thế chiến thế giới lần II (Lúc này
nước Pháp không còn thực dân nữa, xin bạn đọc xem thêm luận điểm này đã được
chứng minh tại “Những
sự thật không thể chối bỏ” phần 12 và phần 13) (*) trả lại quyền hành cùng
nền độc lập qua Hiệp Ước Vịnh Hạ Long (1948). Ngày 2/6/1948, chính phủ lâm thời
Việt Nam ra đời do tướng Nguyễn Văn Xuân chủ tọa, lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ do họa
sĩ Lê Văn Đệ đề nghị được chấp nhận làm quốc kỳ và lấy bài Tiếng gọi Thanh Niên
của Lưu Hữu Phước được đổi tên là Tiếng Gọi Công Dân đã
được chấp nhận làm quốc ca của quốc gia Việt Nam. Năm 1954, Bảo Đại thoái vị,
ông Ngô Đình Diệm được nhân dân miền Nam bầu thành tổng thống nước Việt Nam
Cộng Hòa qua cuộc tổng tuyển cử dân chủ vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 tiếp nối
giòng chính sử nước ta bằng cách thay thế triều Nguyễn và giữ lá cờ vàng ba sọc
đỏ truyền thống làm quốc kỳ của Miền Nam. Ngày 7/7/1954, Ông Ngô Đình Diệm về
nước thành lập chính phủ và lập nên nền đệ Nhất Cộng Hòa VN. Quốc Hội Lập Hiến
VNCH năm 1956 đã quyết định giữ lại bài Tiếng Gọi Công Dân làm
quốc ca, nhưng lời được đổi lại như sau:
Này
công dân ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng.
Đồng
lòng cùng đi, hy sinh tiếc gì thân sống!
Vì
tương lai quốc dân, cùng xông pha khói tên,
Làm
sao cho núi sông từ nay luôn vững bền.
Dầu
cho thây phơi trên gươm giáo,
Thù
nước lấy máu đào đem báo.
Nòi
giống lúc biến phải cần giải nguy,
Người
công dân luôn vững bền tâm trí,
Hùng
tráng quyết chiến đấu làm cho khắp nơi
Vang
tiếng người nước Nam cho đến muôn đời!.....
(*) http://danlambaovn.blogspot.com/2012/08/nhung-su-that-khong-choi-bo-phan-12-su.html#.UcyDZr0y0wO
Sự kiện tiếp nối của lá cờ vàng dân tộc đã được quy chỉnh đó chính
là lá cờ vàng 3 sọc đỏ của chính phủ VNCH. Qua hai thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị
Cộng Hòa, nhân dân miền nam được no ấm và hạnh phúc. Lá cờ vàng ba sọc đỏ cũng
chính là sự tiếp nối truyền thống dân tộc Việt Nam đã tung bay trên khắp các
con đường, góc phố, làng mạc ở miền Nam Việt Nam. Đó là biểu hiện cho tinh thần
dân chủ và đoàn kết của dân tộc. Để biết rõ hơn mà chính thể VNCH đệ nhất và đệ
nhị đã làm được cho nhân dân Miền Nam, xin bạn đọc tìm hiểu thông qua bài viết “Những sự thật cần phải
biết”- phần 2 (**) đã được đăng tải.
(**): http://danlambaovn.blogspot.com/2012/10/nhung-su-that-can-phai-biet-2-viet-nam.html#.UcyIN70y0wM
Nếu bạn đọc có điều kiện, xin đọc câu chuyện “Mẹ tôi và lá cờ vàng ba
sọc đỏ” của tác giả Nguyễn Kiến để thấy tình cảm của người dân Miền Nam
giành cho lá cờ dân tộc như thế nào. Trong bài viết có đoạn:“Trong lúc lục giấy tờ
để làm khai tử cho mẹ, tôi tìm thấy chiếc ví nhỏ mà Mẹ tôi vẫn thường dùng để
đựng ít tiền và các giấy tờ tùy thân như thẻ an sinh xã hội, thẻ căn cước...
Trong một ngăn ví là lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ bằng giấy, khổ bằng chiếc thẻ tín
dụng mà có lẽ Mẹ tôi đã cắt ra từ một tờ báo nào đó. Tôi bồi hồi xúc động, thì
ra Mẹ tôi vẫn giữ mãi lá Cờ Quốc Gia bên mình, có lẽ lá cờ vàng hiền lành này
đối với Mẹ tôi cũng thiêng liêng như linh hồn của những người đã khuất.”
Và một câu chuyện ngắn khác của tác giả Nguyễn Duy An đã nói lên
sự trân trọng của người dân đối với lá cờ vàng ba sọc, câu chuyện về người thầy
giáo đã phải thốt lên khi nhìn thấy lá cờ vàng: “Tôi vừa quẹo xe vào
cổng, thầy tôi đã nghẹn ngào thốt lên: - Ôi! Đẹp quá. Lá cờ… Lá Cờ Vàng… Ôi!
Mấy chục năm rồi… Con nhớ chụp cho thầy mấy tấm hình dưới cột cờ nhé.”
Cho đến hôm nay, sau 38 năm cộng sản bành trướng khắp đất nước
Việt Nam, nhưng đồng bào Việt Nam vẫn luôn tin tưởng và lá cờ chính nghĩa của
dân tộc. Khắp nơi trên thế giới, người dân Việt vẫn luôn tự hào về lá cờ vàng
truyền thống.
Và ngay tại Việt Nam, hai sinh viên yêu nước là Phương Uyên và
Nguyên Kha đã cho thấy sự lựa chọn của mình cho cờ vàng dân tộc là chính xác.
Đồng hành cùng hai bạn trẻ là lá cờ vàng vẫn ngạo nghề tại Việt Nam, nơi cộng
sản đang ngày cảng hung bạo và độc ác.
Ý nghĩa triết lý và biểu trưng trên lá cờ vàng
Cờ vàng đã được người dân VNCH nâng niu và trân trọng cho đến hôm
nay sau 38 năm lưu lạc vì cộng sản tàn ác. Không những vậy, những tầng lớp
thanh niên như chúng tôi lớn lên sau năm 1975, khi tìm hiểu sự thật lịch sử đã
thấy cờ vàng là lá cờ có nhiều ý nghĩa đối với dân tộc, nó không phải là “ba
que xỏ lá” của “Ngụy” như cộng sản vẫn tuyên truyền. Vậy thực sự ý nghĩa của lá
cờ vàng 3 sọc đỏ thế nào. Xin phép được gửi tới bạn đọc.
Lá cờ Việt Nam Tự Do có nền vàng và ba sọc đỏ. Màu vàng là màu
quốc thổ và cũng là màu da của giống nòi Việt Nam.Theo vũ trụ quan của người
Việt, màu vàng còn thuộc về hành thổ và có vị trí trung ương, tượng trưng cho
lãnh thổ và chủ quyền của quốc gia. Chính vì thế mà vua chúa thời xưa thường
xưng là Hoàng Đế và
mặc áo có tên hoàng
bào.
Màu đỏ thuộc hành hỏa và là màu của phương Nam. Đây là biểu tượng
của một dân tộc bất khuất, anh hùng, và độc lập trong cõi trời Nam, tách biệt
hẳn với nước Tàu ở phương Bắc. Ba sọc đỏ còn tượng trưng cho ba miền: Bắc,
Trung, và Nam. Tuy gọi là ba miền (ba sọc đỏ) nhưng chúng có cùng chung một nhà
(nền vàng). Đó là nhà Việt Nam, con dân muôn đời thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Khi chính phủ Trần Trọng Kim cầm quyền vào năm 1945, một vạch đỏ
đứt giữa được thêm vào giữa hai vạch đỏ đã có sẵn trên lá cờ vàng tạo thành lá
cờ có hình Quẻ Ly Đơn.
Tiếp đến, khi về nước làm Quốc Trưởng vào năm 1948, Cựu Hoàng Bảo Đại đã cho
đổi vạch đứt chính giữa thành vạch liền tạo thành lá cờ có nền vàng và ba sọc
đỏ giống nhau. Ba vạch đỏ kỳ này có hình Quẻ Kiền. Quẻ Kiền,
còn gọi là Quẻ Càn, tượng trưng cho trời Nam, tức là nước Việt Nam ta.
Trong bài "Quốc
Kỳ và Quốc Ca Việt Nam", giáo sư Nguyễn Ngọc Huy giải thích về ý nghĩa
của hình Quẻ Ly trên
lá Cờ Vàng của thời chính phủ Trần Trọng Kim với đại ý là Quẻ Ly, một quẻ trong
Bát Quái, tượng trưng cho mặt trời, lửa, ánh sáng, và cho văn minh. Ngoài ra,
ông Huy còn giải thích thêm là bên trong quẻ Ly hiện lên một nền vàng gồm hai
vạch liền và một vạch đứng nối liền hai vạch ấy. Đó là chữ công trong nghĩa của
các từ công nhân và công nghệ, tức là người thợ và nghề biến chế các tài nguyên
để phục vụ đời sống con người. Vì thế, Quẻ Ly còn hàm ý ca ngợi siêng năng cần
mẫn và sự khéo léo của dân tộc Việt Nam. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy (1924 -1990)
là một cựu chính khách Việt Nam Cộng hòa. Ông là một trong những người sáng lập
đảng Tân Đại Việt và là Tổng thư ký đầu tiên của đảng này. Ông cũng là Tổng thư
ký của Phong trào Quốc gia Cấp tiến và là một thành viên trong phái đoàn Việt
Nam Cộng hòa tham dự Hòa đàm Paris.
Ông Nguyễn Ngọc Huy cũng giải thích về ý nghĩa của lá cờ vàng có
hình Quẻ Càn dưới thời Vua Bảo Đại. Theo ông, Quẻ Càn tượng trưng cho trời, cho
vua, cho cha, và quyền lực. Ngày nay, chúng ta sống trong chế độ dân chủ thì Quẻ Càn trên quốc kỳ
có thể dùng để tượng trưng cho quốc gia và dân tộc Việt Nam cùng sức mạnh của
toàn dân ta. Tuy bắt nguồn từ đời Hai Bà, năm 40 Dương Lịch, tức là cách đây
1961 năm, lá cờ Việt Nam Tự Do chỉ mới được qui định rõ ràng bằng sắc lệnh từ
năm 1948, tức là cách đây (2003) 55 năm. Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, với tư
cách đứng đầu chính phủ lâm thời Quốc Gia Việt Nam thời đó đã ký Sắc Lệnh số 3
ngày 2 tháng 6 năm 1948 để qui định những tiêu chuẩn về lá quốc kỳ của nước
Việt Nam như sau: "Biểu
hiệu Quốc Gia là một lá cờ nền vàng, chiều ngang bằng 2/3 chiều dài, giữa có ba
sọc đỏ đi suốt lá cờ, rộng bằng 1/15 chiều dọc và cũng cách bằng nhau chừng
ấy."
Giáo sư Nguyễn Chính Kết, tên gọi khác là Đoàn Chính Kết, sinh
tháng 5-1952, tại huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Năm 1954, Kết theo gia đình di
cư vào Nam, ở tại xã Tân Phú Trung, huyện Củ Chi, TP HCM. Từ năm 1963 đến năm
1975, ông theo học tại Tiểu chủng viện Sài Gòn và Giáo hoàng Học viện Đà Lạt.
Ông là một trong những nhà đấu tranh dân chủ cho Việt Nam. Ngày 13-3-2007, Cơ
quan An ninh Điều tra, Công an TPHCM của nhà cầm quyền cộng sản đã ra lệnh truy
nã đối với ông tại thời điểm ông đang thường trú tại 6/8A đường Quang Trung,
phường 12, quận Gò Vấp, TPHCM, vì đã có hành vi tuyên truyền chống Nhà nước
CHXHCN Việt Nam theo Điều 88 và 91 - Bộ Luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam. Giáo
sư Kết cho biết: "cờ
vàng ba sọc đỏ – đã có từ 118 năm trước (tính đến năm nay, 2008) - không phải
chỉ là cờ của một chế độ hay một thể chế chính trị nào, mà là quốc kỳ truyền
thống của dân tộc Việt Nam".
Cờ Việt Nam Tự Do được hun đúc bằng khí thiêng trời đất và tinh
thần quật khởi của dân tộc Việt suốt gần hai ngàn năm lịch sử. Nó tượng trưng
cho hồn thiêng sông núi, cho vận hội thái hoà, và cho sự thành công vĩnh cửu
của giống nòi Việt Nam. Kể từ năm 40 Tây lịch, thời Hai Bà Trưng, lá cờ Việt
Nam Tự Do đã được cải tiến để có hình dạng màu sắc như hiện nay. Thật quả là
một ý nghĩa cao cả và đáng được hãnh diện. Lá cờ Việt Nam Tự Do đã thăng trầm
với lịch sử oai hùng của dân tộc, nhuốm khí thiêng sông núi, tượng trưng cho
dân chủ tự do nhân quyền, cho ý chí kiêu hùng của nòi giống Việt, cho thái hòa
thịnh trị của muôn dân, và cho đoàn kết trong việc giữ nước và dựng nước của tổ
tiên ta.
Như vậy có thể thấy Lá cờ Vàng 3 sọc đỏ chính là lá cờ của Việt
Nam Tự Do không phải là của riêng một chế độ hay của riêng một chính phủ nào mà
là của chung cho cả dân tộc Việt. Lá Cờ Việt Nam Tự Do là linh hồn của cả dân
tộc Việt. Lá cờ còn, chính nghĩa còn. Lá cờ còn, tinh thần chiến đấu còn, vì nó
là tín bài để chúng ta nhận diện những người Việt Tự Do. Chỗ nào có lá cờ Việt
Nam Tự Do thì chỗ đó có tình thương, có dân chủ, có tự do, và có nhân quyền.
Giờ này, đa số nhân dân yêu tự do dân chủ, ở trong nước cũng như ở hải ngoại,
mỗi khi nhìn thấy Lá Cờ Việt Nam Tự Do tức là như nhìn thấy vị cứu tinh dân
tộc.
Hơn thế nữa, lá Cờ Vàng - yếu tố Liên bang - Tam quyền phân lập.
Dưới hai trào chánh phủ Trần Trọng Kim và Nguyễn Văn Xuân/Trần Văn Hữu, vua Bảo
Đại dùng cờ vàng làm quốc kỳ. Theo thể chế Quân chủ Lập hiến, giống như Anh
quốc, Nhật, Thái Lan. Chia Việt Nam ra làm 3 Miền: Nam, Trung, Bắc (giống như 3
Tiểu bang). Mỗi Miền có Khâm sai đứng đầu. Đây là hình thức Liên bang mà Hoa
kỳ, Úc,... áp dụng rất thành công.
Màu vàng là da vàng, sọc đỏ là máu đỏ. Màu vàng biểu tượng của
vương quyền phương Nam, hành thổ là đất nuôi sống toàn dân. Ba sọc đỏ tượng
trưng cho ba Tiểu bang (ba kỳ/ba miền) là ba anh em Nam Trung Bắc cùng chung
sống hài hòa, an lành trên dãi đất Việt Nam. Ba sọc đỏ song song là biểu tượng
của ba anh em đồng hành, đồng quyền, tương kính; không được quyền lấn lướt, hà
hiếp, hãm hại nhau, cùng chung nhau xây dựng, phát triển, bảo vệ mảnh đất màu
vàng Việt Nam để cùng cộng sinh và cộng hưởng. Ba sọc đỏ còn là biểu tượng của
tam quyền phân lập (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) và là ba biểu tượng của Tự
do, Dân chủ, Nhân quyền mà Hoa kỳ và các quốc gia tự do đang áp dụng, kể cả
VNCH.
Lá cờ Vàng có một ý nghĩa cao cả, và đã thăng trầm với lịch sử oai
hùng của dân tộc Việt. Nó nhuốm khí thiêng sông núi, tượng trưng cho Dân chủ,
Tự do, Nhân quyền, cho ý chí kiêu hùng của nòi giống Việt, cho thanh bình thịnh
trị của muôn dân, và cho đoàn kết dân tộc trong việc giữ nước và dựng nước của
tổ tiên ta. Lá Cờ Vàng Quốc Gia Việt Nam là linh hồn của cả dân tộc Việt. Lá cờ
còn, chính nghĩa còn. Lá cờ còn, tinh thần chiến đấu còn. Lá cờ còn, sự đoàn
kết còn, đó là sự khác biệt giữa người Việt Quốc Gia và Cộng Sản.
----- Forwarded Message -----
From: Bien Nguyen <bienvannguyen67@gmail.com>
To:
Sent: Wednesday, December 28, 2016 2:25 PM
Subject: Fwd: CHƯNG CỜ VÀNG Ở HÀ NỘI - NGHỆ AN VÀ MIỀN TRUNG VIỆT NAM
To:
Sent: Wednesday, December 28, 2016 2:25 PM
Subject: Fwd: CHƯNG CỜ VÀNG Ở HÀ NỘI - NGHỆ AN VÀ MIỀN TRUNG VIỆT NAM
CHƯNG CỜ VÀNG Ở HÀ NỘI - NGHỆ AN VÀ MIỀN TRUNG
VIỆT NAM
---------- Forwarded message ----------
From:
Date: 2016-12-28 13:40 GMT-08:00
Subject: CHƯNG CỜ VÀNG Ở HÀ NỘI - NGHỆ AN VÀ MIỀN TRUNG VIỆT NAM
To:
From:
Date: 2016-12-28 13:40 GMT-08:00
Subject: CHƯNG CỜ VÀNG Ở HÀ NỘI - NGHỆ AN VÀ MIỀN TRUNG VIỆT NAM
To:
On Wednesday, December 28, 2016 1:31 PM,
CHƯNG CỜ VÀNG Ở HÀ NỘI - NGHỆ AN VÀ MIỀN TRUNG VIỆT NAM
*** Nếu Cộng Sản Việt Nam
muốn Hòa Giải Hòa Hợp Dân Tộc Thật Sự và muốn toàn thể Nhân Dân VN quên bớt đi
những tội ác kinh khủng tày trời giết người , trộm cướp đất đai , ngân
lượng , tiền của , nhà cửa và các tài sản của Nhân Dân
từ trước năm 1950 đến nay thì một trong những điều tiên quyết mà Cộng Sản VN
phải làm là PHẢI để cho Nhân Dân được tự do chưng cờ , cắm cờ và treo CỜ VÀNG đã
có từ Thời của Hai Chị Em bà Trưng Trắc và Trưng Nhị ( đầu voi cắm
ngọn Cờ Vàng ) , thời các Vua Chúa Nhà Nguyễn Gia Long và
Bảo Đại đến nay ở khắp mọi nơi trên toàn thể đất nước Việt Nam ,
khắp các nẻo đường , các hang cùng , ngõ hẻm và khắp mọi nhà ở VN mà không có
một lời than phiền , hạch hỏi hay tra vấn nào của các đảng viên và cán bộ
CSVN ...
|
|||||||||||||
__._,_.___
Posted
by: Chau Nguyen <vinhchau1208@yahoo.com>