heo VN


Image result for coronavirus

VN là chổ xả rác cho bọn tàu, người VN tỉnh ngũ đi.





ĐỐT LŨA ĐI EM ĐỂ DIỆT QUÂN THÙ.



https://1.bp.blogspot.com/-HJRXuhnZmHY/VyBW6ru1AaI/AAAAAAAAQEQ/s0_7Wf7A4CgWv3r6IqpL2yrEK2G2kO6PACLcB/s1600/Vi%2Bmoi%2Btruong%2Btrong%2Bsach%2Bcho%2BViet%2BNam%2B.jpg

ĐỐT LŨA ĐI EM ĐỂ DIỆT QUÂN THÙ.
Biểu tình 5/3/2017
Image result for bom xang
https://www.youtube.com/results?sp=EgIIAg%253D%253D&q=bi%E1%BB%83u+t%C3%ACnh+2017

Saturday 29 October 2016

Nguyễn Phú Trọng ra đi, Đinh Thế Huynh chuẩn bị lên thay

Nguyễn Phú Trọng ra đi, Đinh Thế Huynh chuẩn bị lên thay

CTM Media

         Cùng tác giả:

        xem tiếp
Chân Trời Mới Media phỏng vấn ông Lý Thái Hùng
Uyên Nguyễn (CTM Media): Ông Đinh Thế Huynh, Thường trực Ban bí thư đảng CSVN đã có hai chuyến đi liền nhau, viếng thăm Trung Quốc từ ngày 19 đến 21 tháng 10 và Hoa Kỳ từ ngày 23 đến 31 tháng 10. Chuyến đi của ông Huynh mang mục tiêu gì khi Hoa Kỳ đang trong mùa bầu cử và nhiệm kỳ của Tổng thống Obama chỉ còn vài tháng nữa? Sau đây xin kính mời quý vị theo dõi phần nhận định của ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư đảng Việt Tân trong chương trình phát thanh hôm nay.
Kính chào ông Lý Thái Hùng. Trước hết ông nhận định như thế nào về hai chuyến viếng thăm Trung Quốc và Hoa Kỳ của ông Đinh Thế Huynh?
Lý Thái Hùng: Với một người vừa mới nắm giữ trách vụ Thường trực Ban bí thư khoảng 9 tháng, từ tháng 2 tới nay, mà đã có đến hai chuyến công du liền nhau tại hai quốc gia có tầm quan hệ chiến lược đối với Việt Nam, thì phải nói là không bình thường.
Không bình thường ở chỗ, Thường trực Ban bí thư là người phụ tá Tổng bí thư trực tiếp điều hành công việc trong nội bộ đảng hàng ngày, ít phải lo những công tác đối ngoại. Nếu phải đi ra ngoại quốc, đặc biệt là đến Hoa Kỳ và Trung Quốc, phải là người đóng vai trò đại diện Tổng bí thư để trao đổi hay điều đình một vấn đề nào đó có tầm chiến lược.
JPEG - 76.3 kb
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry và Thường trực Ban Bí thư Đảng CSVN Đinh Thế Huynh trong cuộc họp báo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 25-10-2016. Ảnh: Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ
Còn nếu Thường trực Ban bí thư chính thức đi thăm viếng mang tính ngoại giao với một số nước theo lời mời thường phải ở nhiệm sở từ hai đến ba năm. Lý do là trong thành phần lãnh đạo thượng tầng của các đảng Cộng sản, các quan hệ đối ngoại của Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch quốc hội và Thường trực ban bí thư đều được phân nhiệm rõ ràng và không thể dẫm chân.
Vì thế, việc ông Đinh Thế Huynh viếng thăm Trung Quốc từ ngày 19 đến 21 tháng 10 và Hoa Kỳ từ 24 đến 31 tháng 10 không đóng vai trò của một quan chức cộng sản nhằm trao đổi về chính sách hay thảo luận về các hợp tác chiến lược. Ông Huynh được sắp xếp đưa đi thăm viếng, hoàn toàn mang tính ngoại giao hay nói rõ hơn là để xây dựng tư thế chính trị cho ông ta trong một sứ mạng mới mà thôi.
Uyên Nguyễn: Thưa ông có thể nói rõ hơn tư thế chính trị hay sứ mạng mới đó của ông Huynh là gì? Liệu có phải là sứ giả mang thông điệp Hà Nội xoay trục đi gần với Hoa Kỳ, trong lúc Tổng thống Phi Luật Tân đoạn giao với Hoa Kỳ để đi gần với Trung Quốc?
Lý Thái Hùng: Việc ông Duterte tuyên bố đoạn giao với Hoa Kỳ tại Bắc Kinh trong chuyến viếng thăm từ ngày 19 đến 21 tháng 10, đã tạo một cú sốc rất lớn trong dư luận. Nhưng ngay sau khi quay trở lại thành phố Davao của Phi, ông Duterte chữa lại rằng ông chỉ muốn chọn đường lối ngoại giao độc lập, chứ không đoạn giao với Hoa Kỳ, khiến dư luận coi ông Duterte như một người bốc đồng.
Thái độ thiếu nghiêm chỉnh trong phát ngôn của ông Dueterte đã khiến cho nhiều nhà bình luận quốc tế cho rằng Phi Luật Tân đã xoay trục về với Trung Quốc, mà trong thực tế, ông Duterte chỉ muốn làm hài lòng Bắc Kinh để mong có được hợp đồng thương mại trị giá 13 tỷ Mỹ Kim nhằm phát triển Mindanao, quê hương của ông ta.
JPEG - 72.7 kb
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đón tiếp Tổng thống Phi Luật Tân Duterte tại Bắc Kinh hôm 20-10-2016. Ảnh: AP
Phi Luật Tân không chỉ quan hệ song phương bình thường đối với Hoa Kỳ mà đã gắn chặt mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quân sự trong hơn 6 thập niên. Ông Duterte không thể một sớm một chiều tuyên bố đoạn giao với Hoa Kỳ và dễ dàng xoay trục về phía Bắc Kinh.
Trong khi đó quan hệ giữa CSVN và Trung Quốc không chỉ dài hơn quan hệ giữa Phi và Mỹ, mà còn sâu đậm hơn về mặt ý thức hệ. Sau biến cố giàn khoan HD 981 vào năm 2014, Hà Nội muốn giữ một khoảng cách với Bắc Kinh và tìm đến Hoa Kỳ để gia tăng đối tác thương mại và mua vũ khí chiến lược, nhưng trong đầu óc của lãnh đạo CSVN không bao giờ tách rời khỏi Trung Quốc để xoay trục về phía Hoa Kỳ.
Ông Đinh Thế Huynh là một trong những người lãnh đạo mang đầu óc lệ thuộc Bắc Kinh rất nặng, và chính ông Huynh đã tuyên bố “quan hệ với Trung Quốc là một chọn lựa chính trị của CSVN” trong chuyến viếng thăm Trung Quốc vừa qua, cho thấy là ông Đinh Thế Huynh không phải là người sẽ xoay trục về Hoa Kỳ.
Ông Huynh hay bất cứ lãnh đạo CSVN nào chỉ muốn tiếp tục đu dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, nhưng nhích gần hơn với Hoa Kỳ so với trước đây để che bớt cái bóng lệ thuộc Bắc Kinh và muốn được bảo đảm gia nhập TPP cũng như mua vũ khí sát thương mà thôi.
Uyên Nguyễn: Qua những phân tích của ông thì thực chất chuyến viếng thăm Trung Quốc và Hoa Kỳ của ông Đinh Thế Huynh nhằm chuẩn bị điều gì?
Lý Thái Hùng: Như tôi đã đề cập bên trên, vị trí Thường trực Ban bí thư của ông Đinh Thế Huynh là lo vấn đề nội bộ đảng. Trong tình hình rối rắm nội bộ đảng vì chiến dịch chống tham nhũng thất bại, lại thêm các tác động tiêu cực của vụ Formosa, và vụ lũ lụt miền Trung do việc xả lũ bừa bãi của nhà máy thủy điện Hố Hô, ông Đinh Thế Huynh lại càng không có nhu cầu phải rời khỏi Việt Nam. Nhưng ông Huynh đã sắp xếp để đến Trung Quốc, rồi liền sau đó đến Hoa Kỳ trong lúc chính quyền Tổng thống Obama sắp mãn nhiệm; theo tôi có ba giả thuyết sau đây:
Thứ nhất là thay mặt Tổng bí thư để nói với lãnh đạo Trung Quốc là CSVN không lên tiếng về phán quyết của Tòa Trọng Tài Liên Hiệp Quốc, tức là không tấn công Trung Quốc về Biển Đông. Đồng thời đến Hoa Kỳ để coi Hoa Thịnh Đốn có thực sự tôn trọng thể chế của CSVN như ông Obama đã nói, cũng như yêu cầu Bộ ngoại giao Hoa Kỳ xác nhận việc mua các vũ khí sát thương và vấn đề gia nhập TPP. Nếu chỉ nói những điều này thì ông Huynh không cần đi.
Thứ hai là thay mặt Tổng bí thư để nói với lãnh đạo Trung Quốc là CSVN không đi theo Hoa Kỳ để Bắc Kinh an lòng, nhưng muốn thăm dò phản ứng của Hoa Thịnh Đốn về tình hình biển Đông và Đông Nam Á sau vụ ông Duterte tuyên bố đoạn giao với Hoa Kỳ. Nếu chỉ nói điều này, ông Huynh lại càng không nên đi mà giao cho Phó thủ tướng Phạm Bình minh là đủ.
Thứ ba là ông Đinh Thế Huynh đến Trung Quốc và Hoa Kỳ nhằm chuẩn bị trở thành nhân vật số 1 của CSVN trong thời gian tới để tránh tình trạng ngỡ ngàng của lãnh đạo hai siêu cường khi có thay đổi vai trò Tổng bí thư.
Đối chiếu với tình hình chính trị nội bộ đảng CSVN và mối quan hệ tay ba giữa CSVN với Trung Quốc và Hoa Kỳ trong 9 tháng qua cho thấy là uy tín ông Trọng quá xuống dốc và phải thay thế, do đó việc ông Huynh đi Mỹ và Trung Quốc là nhằm chuẩn bị cho sự thay thế ông Trọng trong năm 2017.
Uyên Nguyễn: Ông nhận định ra sao về tình hình chính trị Việt Nam sau chín tháng lãnh đạo của ông Trọng ở nhiệm kỳ thứ hai?
Lý Thái Hùng: Ông Nguyễn Phú Trọng tuy giữ được ghế Tổng bí thư sau những xung đột gay gắt với phe ông Nguyễn Tấn Dũng trong quá trình chuẩn bị Đại hội XII, nhưng nhìn lại tình hình nội bộ đảng CSVN trong 9 tháng qua thì phải nói là suy thoái trầm trọng, và mầm mống bất mãn nội bộ gia tăng ngày một lớn.
Ông Trọng đi theo con đường “đả hổ diệt ruồi” của Tập Cận Bình với chính sách chống tham nhũng, để mong trong sạch đảng và trong sạch nhà nước. Nhưng sự kiện Trịnh Xuân Thanh không những chạy thoát sang Đức mà còn quay lại thách đố quyền lực Tổng bí thư, đã làm tiêu tan sự nghiệp chính trị của ông Trọng.
JPEG - 75 kb
Những màn đấu đá gay gắt giữa phe Nguyễn Phú Trọng và phe Nguyễn Tấn Dũng diễn ra trong quá trình chuẩn bị Đại hội XII và tiếp tục mãi đến ngày hôm nay. Ảnh: Reuters
Có thể nói, vụ Trịnh Xuân Thanh đã làm cho chủ trương chống tham nhũng của ông Trọng trong 9 tháng qua biến thành một sự đàm tiếu trong dư luận. Nhưng quan trọng hơn là trong nội bộ đảng CSVN thấy là ông Trọng không có khả năng chống tham nhũng, hoặc chỉ là nguỵ quân tử, tức là miệng nói chống tham nhũng mà lại đang bao che cho đàn em tranh đoạt những tài sản của phe ông Dũng đã thất sủng, lập ra cái gọi là “lợi ích nhóm” mới của phe ông Trọng.
Khi tung chiêu bài “chống tham nhũng” để mong kiểm soát chặt chẽ nội bộ đã bị coi là thất bại thì ông Trọng phải đổi chiêu khác để duy trì sự ủng hộ cho cái ghế Tổng bí thư. Ông Trọng chỉ còn có thể dùng chiêu bài cải cách thể chế để sửa đổi hệ thống chính trị đang ruỗng nát như một khẩu hiệu mới. Nhưng với con người nặng giáo điều và là lý thuyết gia về Mác – Lênin, ông Trọng không dám đụng đến cải cách thể chế vì sẽ bị cho là chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Bế tắc nói trên đã buộc ông Nguyễn Phú Trọng phải ra đi, nhường lại ghế Tổng bí thư cho đàn em là ông Đinh Thế Huynh. Ông Huynh cũng nặng giáo điều, nhưng hy vọng chữa cháy cho đảng một thời gian ngắn trong lúc uy tín chính trị của ông Trọng đã cháy tiêu tan.
Nói tóm lại, trong 9 tháng lãnh đạo ở nhiệm kỳ 2, ông Trọng tưởng là đã thắng và loại được phe Nguyễn Tấn Dũng nhưng không ngờ, những đàn em của ông Nguyễn Tấn Dũng đã phản công và xóa tan uy tín chính trị của ông Trọng. Cùng lúc, những hệ lụy của các quyết định sai lầm do hệ thống cai trị độc tài và tham nhũng gây ra như các vụ Formosa, Hố Hô, Bauxít Tây Nguyên v. v... đang bùng vỡ, kéo theo không chỉ ông Trọng mà còn bất cứ lãnh đạo nào cũng như toàn bộ cơ chế trong dòng đổ nát, hỗn độn của giai đoạn cáo chung.
Uyên Nguyễn: Xin cảm ơn ông Lý Thái Hùng.

__._,_.___

Posted by: ly vanxuan 

Friday 28 October 2016

Làm sao để trục xuất kẻ "vi phạm nhân quyền" khỏi Hoa Kỳ Một vấn đề công lý và lương tâm



Ác Lai Ác Báo
 


Bloody owe should be paid back by his own blood!


Tin tức liên quan đến tên công an Nguyễn Đức Chương

Thượng tá VC Nguyễn Đức Chương ??? Trong những ngày qua một bản tin (xin xem ở dưới) nói vê tội ác của Nguyễn...



Làm sao để trục xuất kẻ "vi phạm nhân quyền" khỏi Hoa Kỳ

Một vấn đề công lý và lương tâm

Ts. Nguyễn Đình Thắng

Ngày 18 tháng 10, 2016

Cuối tháng 7 năm 2015, trên internet bắt đầu xầm xì thông tin về một người được cho là cựu Thượng Tá công an cộng sản, tên Nguyễn Đức Chương, vừa đến Hoa Kỳ định cư do con gái bảo lãnh. Trước đây đương sự từng là Trưởng Công An Huyện Định Quán (Tân Phú), Tỉnh Đồng Nai.

Theo các cáo buộc loan tải trên internet thì tháng 5 năm 1978, đương sự đưa lực lượng công an vây bắt 21 binh sĩ thuộc Tiểu Đoàn 2 ,Trung Đoàn 48, Sư Đoàn 18 bộ binh của quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã không trình diện. Họ bị đem về Huyện Tân Phú, Đồng Nai để điều tra; họ bị tra tấn rồi tử hình. Cũng theo thông tin trên internet, tháng 7 năm 1978, đương sự cho công an mai phục một toán 10 người lính VNCH không trình diện, trong đó 6 người bị bắn chết tại chỗ và 4 người bị xử bắn sau đó. Đương sự còn bị cáo buộc là đã toa rập để cưỡng chiếm Thánh Thất Cao Đài ở Định Quán nhằm bán đất lấy tiền bỏ túi.

Tôi theo dõi các thông tin này từ đầu nhưng không lên tiếng vì tin tức mơ hồ. Tuy nhiên, gần đây có người cho biết đã nhận diện đương sự hiện ở San Jose. Nếu quả vậy, đấy có thể là manh mối để khởi động tiến trình trục xuất đương sự khỏi Hoa Kỳ.

Chắc nhiều người còn nhớ vụ Ông Bùi Đình Thi. Năm 1999 tôi bắt đầu nghe loáng thoáng về trường hợp này, và đã nói chuyện với thân nhân của cố Dân Biểu Đặng Văn Tiếp, cố Đại Tá Trịnh Tiếu, LM Nguyễn Hữu Lễ… để lấy thông tin chi tiết. Khi đã thu thập đủ dữ kiện, năm 2001 tôi yêu cầu Đơn Vị Đặc Trách Các Kẻ Vi Phạm Nhân Quyền (Human Rights Violators Unit hay HRVU) của Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ điều tra và tiến hành trục xuất Ông Thi vì đã vi phạm một cách trầm trọng nhân quyền của các tù nhân trong trại cải tạo. Luật của Hoa Kỳ không cho phép các kẻ vi phạm trầm trọng nhân quyền của người khác nhập cư. Ai đã nhập cư, do khéo che dấu tông tích, thì bị trục xuất. Ai đã nhập tịch Hoa Kỳ thì bị thu hồi quốc tịch trước khi bị trục xuất.

Sau hơn 2 năm điều tra và qua thủ tục toà án, chính phủ Hoa Kỳ quyết định trục xuất Ông Thi. Vì Việt Nam không nhận, Ông ấy đã được chuyển đến đảo Marshall Islands, xem như bị lưu đày. Ông ấy đã qua đời tại đây.

Có người hỏi tôi, động cơ nào thúc đẩy tôi can thiệp trường hợp này. Tôi chẳng hề quen biết ông Thi. Thực ra có những lúc tôi động lòng trắc ẩn khi nghĩ đến thân phận của một người sẽ bị lưu đày xa vợ xa con, và tâm lý dày vò của vợ con khi biết về tội ác của người chồng người cha yêu mến.  Nhưng công lý thuộc về xã hội chứ không phải là điều để tôi tuỳ tiện quyết đoán theo ý riêng. Mục đích của luật pháp không chỉ là trừng phạt mà là làm gương. Tôi quyết định hành động để nêu tấm gương cho bất kỳ ai có ý vi phạm nhân quyền của người khác. 

Ngoài ra tôi còn một chủ ý nữa: Chính thức ghi lại những tội ác mà chế độ cộng sản đã gây ra trong các trại tù cải tạo, để nhân loại không bao giờ quên. Qua trường hợp của Ông Thi, nhiều hành vi tội ác xảy ra trong một số trại tù cải tạo đã được đưa vào hồ sơ của Sở Di Trú, của toà án, và công luận – nhiều tờ báo Mỹ chạy tin về trường hợp hi hữu này. 

Trường hợp của Ông Bùi Đình Thi không là trường hợp duy nhất. Năm 2006 tôi làm việc với bộ phận HRVU về trường hợp của Ông H. N. Diệp. Trong thời gian từ 1978 đến 1983, đương sự đã trực tiếp hay gián tiếp gây ra cái chết của nhiều người trong trại tù cải tạo Lam Sơn, Thanh Hoá như: Lê Quảng Lạc (tình báo), Trần Thượng Khải (cảnh sát), Quách Trung Chánh (cảnh sát),  Lưu Tường Khương (chiêu hồi), Nguyễn Vinh (an ninh), Thiếu tá Bùi Văn Bảy, Trung Tá Bé, Ung Kim Cho (Khmer Krom), Thiếu tá Chung (cảnh sát), Sương (Khmer Krom),  Ngô Chuẩn (trưởng ty cảnh sát), Minh (Đảng Dân Chủ)…  Những nạn nhân khác của Ông Diệp gồm có: Ngô Văn Tiếp, Nguyễn Thông, Nguyễn Mâu, Trần Hùng Việt, cựu Dân Biểu Nguyễn Hữu Thời, Trần Văn Chi, Lê Thiên Sơn (Chủ bút  báo Quật Cường) và nhiều nữa. Xem ra, Ông Diệp còn tàn ác với các người đồng tù hơn cả Ông Thi.

Ông Diệp đến Hoa Kỳ theo chương trình HO ngày 30 tháng 7, 1991 và nhập tịch ngày 16 tháng 12, 1998. Một người con gái của Ông Diệp sau này mở nhà hàng ở San Jose; nhà hàng này làm ăn thành công và được thực khách Mỹ ưa chuộng. Ông Diệp thường vẽ tranh để trưng bày và bán tại đấy. Tôi truy ra bảng số xe, ngày sinh (27 tháng 5, 1943), số hồ sơ nhập cảnh Hoa Kỳ, địa chỉ nhà ở… của Ông Diệp. Bộ phận HRVU của Bộ Tư Pháp đã phỏng vấn một số nhân chứng còn sống. Tuy nhiên, hồ sơ bị “treo” cho đến giờ chỉ vì thiếu một yếu tố quan trọng: không ai có thể quả quyết rằng nhân vật sống tại địa chỉ kia, thường lui tới nhà hàng nọ, lái xe bảng số ấy chính là Ông H. N. Diệp. Sở Di Trú Hoa Kỳ không thể đột nhập gia cư, còng tay, và đưa ra toà tiến hành thủ tục trục xuất để rồi khám phá rằng bắt lầm người.

Trong trường hợp của Ông Bùi Đình Thi, LM Nguyễn Hữu Lễ đã từng gặp Ông ấy tại nhà riêng và có thể khẳng định rằng đó chính là đương sự. Còn hồ sơ của Ông H. N. Diệp vẫn mở nhưng bị “treo” cho đến khi có người chứng thực.

Trường hợp của Ông Nguyễn Đức Chương cũng thế. Nếu muốn chuyển hồ sơ cho bộ phận HRVU của Bộ Tư Pháp, tôi không những cần thông tin đích xác về nơi đương sự cư trú; địa chỉ nhà hàng của người con gái; tên của người con gái đứng ra bảo lãnh; bảng số xe, số an sinh xã hội, ngày tháng năm sinh, ảnh chụp, v.v. của họ mà còn cần nhân chứng về các tội ác mà Ông Nguyễn Đức Chương đã vi phạm ở Việt Nam và, rất quan trọng, người có thể xác minh rằng nhân vật được nhận diện là Ông Nguyễn Đức Chương đang ở San Jose đích thực là Ông Nguyễn Đức Chương kể trên.


Mọi thông tin xin gửi về cho: bpsos@bpsos.org







__._,_.___

Posted by: VietHai Tran 

Thursday 27 October 2016

BỐN CÁI NGU THỜI HẬU DI DÂN


---------- Forwarded message ----------
From: lan le <>
Date: 2016-10-26 22:15 GMT-07:00
Subject: Fw: Fwd: Fw: BỐN CÁI NGU THỜI HẬU DI DÂN...
To: Chi Nguyen <c





Subject: Fwd: BỐN CÁI NGU THỜI HẬU DI DÂN...

                   BỐN CÁI NGU THỜI HẬU DI DÂN :   (nên đọc để biết)





Người Việt Nam ta thường có tình cảm gia đình rất sâu nặng, người đi trước giúp người đi sau...
Ông bà ta thường nói:
“Trên đời có 4 cái ngu:
Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu”
Ở Mỹ, tôi xin phép được sửa lại 4 cái ngu theo ý của riêng tôi:

“Trên đời có 4 cái ngu:
Làm mai, bảo lãnh, co-sign, cho tiền”.

Làm mai, co-sign thì chắc nhiều người biết tại sao ngu rồi, tôi không bàn thêm nữa. Hôm nay tôi xin được phép góp vài ý kiến cá nhân về cái chuyện dài bảo lãnh và cho tiền làm từ thiện ở Việt Nam .

Người Việt Nam ta thường có tình cảm gia đình rất sâu nặng, người đi trước giúp người đi sau. Sau khi được sang định cư ở nước thứ ba là bắt đầu lo giấy tờ bảo lãnh người thân. Các văn phòng lo dịch vụ di trú, đoàn tụ mọc ra như nấm và không bao giờ thiếu khách hàng. Hết lo bảo lãnh người thân ruột thịt như cha mẹ, vợ chồng, con cái xong, thì đến bảo lãnh anh chị em, con cháu, họ hàng, bạn bè xa gần.



Nhiều người bảo lãnh thân nhân sang Mỹ xong, chỉ một thời gian ngắn sau đó là gây gỗ, cha mẹ anh em không thèm nhìn mặt nhau, có khi chính gia đình vợ chồng người bảo lãnh cũng gẫy đổ vì những người thân từ Việt Nam sang đâm thọc.


Người ở Việt Nam bây giờ nếu biết làm ăn buôn bán, tham nhũng, hối lộ, chạy chọt thì cũng có tiền bạc rủng rỉnh, nên khi có giấy tờ bảo lãnh của thân nhân về, họ đi Mỹ định cư mà cứ như là đi du lịch dài hạn, ở được thì ở, không được thì về.


Khi qua Mỹ, họ tưởng đâu ở Mỹ là thiên đàng, việc làm dễ kiếm, đủ loại trợ cấp nhà nước nên khi đụng vào thực tế phủ phàng sau mấy tháng qua Mỹ ăn ở không chẳng có đồng nào trợ cấp, người bảo lãnh cũng không khá giả gì hơn, họ bất mãn và tháo lui về lại Việt Nam, nhưng vẫn không quên để lại con cái ở Mỹ nhờ anh em, bà con chăm sóc giùm cho mấy đứa nhỏ có tương lai!

 Có người Việt Nam mới qua Mỹ có mấy ngày, đi ăn nhà hàng Việt Nam ở khu Little Saigon, khẩu vị khác với ở Việt Nam, đã không ngần ngại chê bai “đồ ăn Việt Nam ở Mỹ dở ẹt, thịt cá đều là đông lạnh, ăn không vô!”.

 Ban ngày ở nhà khu yên tịnh, chủ nhà đi làm hết, không có xe cộ ở nhà để xuống phố Bolsa, thì rên rỉ “nhà gì đâu mà ở khu vắng vẻ như chùa Bà Đanh, ở nhà suốt ngày giống như ở tù bị giam lỏng!”. 


Có nhiều anh Việt kiều về Việt Nam lấy vợ, rước nàng về Mỹ, được một, hai tháng, thấy nàng suốt ngày gọi điện thoại về Việt nam vì nhớ cha nhớ mẹ, bill điện thoại mỗi tháng không dưới 200 đô. Ban đêm hay cuối tuần thì bắt anh chồng chở đi shopping, tiêu xài thoải mái, cà thẻ tín dụng không cần biết bao nhiêu. Anh chồng kêu đi học Anh văn, học nghề thì viện đủ lý do để khỏi đi, ở nhà để chồng nuôi cho sướng. Không biết một hai năm sau, anh chồng có còn chịu nổi nữa không ?



Có một cặp vợ chồng đang êm ấm, rước bà mẹ chồng và cô em chồng qua thì trong nhà bắt đầu lục đục. Bà mẹ chồng thấy con trai mình đi làm về vào bếp phụ vợ nấu cơm thì khó chịu, chì chiết con dâu là không làm bổn phận làm vợ, làm dâu đúng tiêu chuẩn Việt Nam của bà. Cô em chồng thì luôn nói xấu chị dâu với anh mình những khi chị dâu đi làm. Như vậy thì ai mà chịu đời cho thấu.



Có một gia đình người bạn mà tôi được biết, bảo lãnh cả gia đình người chị chồng từ Việt Nam qua. Qua Mỹ được vài tháng, bà chị chồng xúi dại người chồng mượn tiền ngân hàng cho bà ta để mua nhà vườn ở Riverside để làm rẫy, trồng rau bán cho các chợ Việt Nam. Gia đình người em tan nát khi chủ nợ ngân hàng, credit card gửi thư đòi nợ ráo riết vì công việc làm rẫy không được thuận lợi như ý muốn.
Ông bà ta thường nói:
“Cứu vật, vật trả ơn
Cứu nhân, nhân trả oán”
Câu này tôi thấy rất là đúng. Người Việt Nam được thân nhân bảo lãnh sang Mỹ bao nhiêu năm nay, có mấy ai còn biết nói tiếng "cảm ơn" người đã đùm bọc cưu mang gia đình mình từ những ngày đầu mới đến Mỹ. Có mấy ai còn liên lạc, còn gọi điện thoại hỏi thăm sức khỏe, chúc Tết “khổ chủ” ngày xưa. Hay đã giận hờn nhau, không thèm nhìn mặt nhau từ lâu lắm rồi?



Bây giờ, xin được nói qua chuyện cho tiền làm từ thiện ở Việt Nam. Thấy có nhiều hội đoàn sốt sắng làm các công tác từ thiện giúp đỡ người nghèo khó ở Việt Nam , tôi rất là cảm phục. Tôi chỉ xin lưu ý các cá nhân đã và đang đóng góp cho các công tác từ thiện ở Việt Nam, có nhiều người còn dấn thân về Việt Nam, đem tiền tận tay giao cho các tổ chức cứu trợ ở Việt Nam.

Với kinh nghiệm cá nhân, tôi không còn tin tưởng nhiều các tổ chức cứu trợ từ thiện ở Việt Nam dưới sự quản lý của nhà nước. Nếu có cho tiền xin đừng để lại tên tuổi, chỉ gây phiền phức cho mình sau này.

Người đại diện ở Việt Nam, có khi tay mặt nhận tiền, nhưng tay trái bắt đầu ghi tên Việt kiều vào sổ phong thần, để điều tra lý lịch, công ăn việc làm của mình ở hải ngoại, để sau này dễ dàng chụp mũ khi cần.

Họ làm báo cáo chi tiết nhưng không bao giờ báo cáo huê hồng ít nhất 10 % cho người kêu gọi đưọc tiền đóng góp từ hải ngoại, gọi là tiền “bồi dưỡng”. Nhiều khi các hội đoàn ở hải ngoại biết rất rõ việc này, nhưng vẫn phải nhắm mắt làm ngơ để quà cứu trợ được đến tận tay đồng bào nghèo khó.
Muốn qua sông phải lụy đò
Muốn thương dân Việt phải “dò” mới tin

 Xin hãy “dò” kỹ nguồn tin trước khi trao tiền, và đừng tin tưởng quá đáng vào tổ chức từ thiện của nhà nước như Hội Phụ Nữ Từ Thiện chủ trương giúp phụ nữ nghèo tạo dựng lại cuộc sống. Xin hãy tìm hiểu kỹ càng hoạt động của họ trước khi bỏ tiền ra giúp họ.
Vài hàng góp nhặt, hy vọng mọi người đọc xong sẽ suy nghĩ và thông cảm với tác giả .

Thứ Bảy, 24 Tháng 9 Năm 2011 04:55 
Tác Giả :  Vô danh





__._,_.___

Posted by: Yen Tran 

Tuesday 25 October 2016

Vì sao Đảng có thể ‘chủ động ban hành Luật Biểu tình?’


Vì sao Đảng có thể ‘chủ động ban hành Luật Biểu tình?’

Phạm Chí Dũng
Tháng Mười năm nay, Ủy ban Pháp luật Quốc hội Việt Nam bất ngờ đề nghị cơ quan hành pháp xem xét sớm trình dự án Luật Biểu tình để “đảm bảo quyền công dân và tạo hành lang pháp lý cho việc khiếu nại, tố cáo đông người”. Đây là lần thứ hai chính thức và lần thứ ba trong năm có yêu cầu về “trả nợ” này.

Thống nhất của bất nhất

Quốc hội Việt Nam giống như một thể thống nhất của rất nhiều bất nhất. Chỉ tính riêng các luật liên quan mật thiết đến quyền con người như Luật về Hội, Luật Biểu tình, cơ quan được xem là “tối cao về quyền dân” này đã gánh món nợ suốt gần một phần tư thế kỷ qua kể từ Hiến pháp “đủ thứ tự do” năm 1992.
Trong suốt chiều dài bất nhất trên, Luật Biểu tình là quá tiêu biểu của màu sắc dân túy “cho – không cho – lại cho – lại không cho…”.

Trong năm gần nhất – 2016, vào đầu năm Quốc hội còn “quyết liệt” yêu cầu Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phải trình Dự luật Biểu tình, nhưng kết quả bẽ bàng sau đó là chính Thủ tướng Dũng đã chỉ đạo “không trình” để rốt cuộc vụ việc lặn không sủi tăm – gần tương tự tình cảnh “biến mất” âm thầm đến kỳ lạ của ông Nguyễn Tấn Dũng trong và sau Đại hội 12 của đảng cầm quyền.

Trong khi Quốc hội như ngủ vùi giữa hai kỳ bầu bán và tuyên thệ không mệt mỏi vào tháng Ba và tháng Bảy năm nay, chẳng còn thấy một đại biểu nào của khóa trước và khóa sau nhắc tới Luật Biểu tình, nhất là khi Bộ Công an – cơ quan vừa có chức năng “đàn áp biểu tình” của dân vừa được giao soạn thảo văn bản luật này – vẫn chẳng chịu trình ra dự luật nào cho phép công dân xuống đường.

Chỉ sau cuộc biểu tình bảo vệ môi trường lên đến hàng chục ngàn người diễn ra vào tháng Năm năm 2016 tại Sài Gòn, Hà Nội và một số tỉnh thành khác, mới xuất hiện một số ý kiến trong nội bộ Đảng cho rằng trước sau gì cũng phải ban hành Luật Biểu tình, bởi nếu không có luật thì “làm sao quản được nó” (ý nói quản lý người biểu tình).

“Đã kêu là phải ra Luật Biểu tình đi. Không có luật mà nó cứ kéo đi rần rần thế này thì lấy gì mà xử nó?” – có người thuật lại lời than vãn của một quan chức trong một cuộc họp “sơ kết” sau những cuộc biểu tình “cá chết Formosa” vào tháng Năm, 2016.

Nhưng bàn tới bàn lui mà vẫn không một quan chức có trách nhiệm nào dám đưa đầu ra “quyết”. Hiện tượng tâm lý chính trị học này cho thấy chính quyền quá lo sợ trước làn sóng biểu tình ở nhiều vùng đất nước của quá nhiều người dân đói nghèo bất chấp có Luật Biểu tình hay không.

“Xuống đường, rồi muốn ra sao thì ra”

Quả thế, đói quá lâu sẽ hết đói. Phong trào biểu tình miền Trung năm 2016 là một hiện tượng sinh học quên phắt cảm giác đói luật.

Cuối cùng, bánh vẽ Luật Biểu tình đã công nhiên trở thành một thứ phế thải. Cuối cùng, người dân Việt Nam đã tự động xuống đường mà bất cần một khung luật nào cho phép. Từ năm 2015 đến nay, hàng loạt cuộc biểu tình đông đảo bảo vệ cây xanh ở Hà Nội, phản đối chính sách không cho nhận trợ cấp một lần ở Sài Gòn, và “cá chết Formosa” trên một diện tích trải rộng của quốc gia… là bằng chứng bất cần về tâm thế “xuống đường, rồi muốn ra sao thì ra” của nhiều người dân không còn gì để mất.

Khác nhiều với không khí thụ động vào những năm trước, càng về sau này càng đã chứng kiến sự chuyển biến tâm thế của lớp dân chúng chịu thiệt hại lớn – từ đòi quyền tự do biểu tình theo đường ray Hiến pháp sang tâm thế vượt qua sợ hãi để tự thể hiện một nhu cầu đã bị dồn ép vào tận chân tường.

Từ tháng Sáu, 2016 đến nay, phong trào biểu tình miền Trung đã bùng nổ và vượt thoát những chế áp của hàng rào cảnh sát, quân đội, để nếu muốn thì hoàn toàn có thể “san bằng Formosa”. Tuy nhiên, các linh mục vẫn giữ cho khối biểu tình tinh thần ôn hòa.

Ngày 2 Tháng Mười, 2016 đã biến thành cao điểm chưa phải là đỉnh điểm. Một cuộc biểu tình “chiếm Formosa” lên đến hàng chục ngàn giáo dân Kỳ Anh đã bùng nổ trước cửa và trên tường thành nhà máy Formosa Hà Tĩnh. Đây là cuộc biểu tình quy mô nhất, chuyên nghiệp nhất và hiệu quả nhất mà lực lượng giáo dân – ngư dân tổ chức được ở miền Trung. Thậm chí lần đầu tiên người dân chứng kiến lực lượng sắc phục cảnh sát cơ động phải cởi áo vứt nón bỏ chạy trước khí thế ngùn ngụt từ đám đông phẫn nộ.

Trong cơn phẫn nộ và bế tắc tận cùng, trong nỗi thất vọng vượt quá giới hạn trước một chế độ đặc trưng quá tham nhũng, độc đoán và khiến phát sinh đủ thứ hậu quả xã hội trầm kha, ngày càng có thêm nhiều người dân vượt qua nỗi sợ của mình để bước ra đường, mở miệng và thét to những gì họ muốn, không cần biết đến nội bộ chính quyền “còn nhiều ý kiến khác nhau về dự Luật Biểu tình…”

Trong khi đó, công an chẳng biết phải làm gì để “siết” nữa. Từ lâu, những đòn phép đối phó với phong trào biểu tình dân oan từ năm 2007 và biểu tình chính trị từ năm 2011 đã được tung ra hết: trên hết là thói trấn áp và “biện pháp nghiệp vụ” của ngành công an, sau đó là Luật Giao thông đường bộ, Luật Hình sự về “gây rối trật tự công cộng”, kể cả những điều luật khắc nghiệt chính trị như “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” (258), “tuyên truyền chống nhà nước” (88), “lật đổ chính quyền nhân dân” (79) đã từ lâu được dùng để áp chế giới bất đồng chính kiến nhưng chỉ khiến tiếp biến “bắt một sinh mười”.

Chỉ vài ngày sau cuộc biểu tình “chiếm Formosa” của dân chúng Kỳ Anh, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội bất ngờ đề nghị cơ quan hành pháp xem xét sớm trình dự án Luật Biểu tình để “đảm bảo quyền công dân và tạo hành lang pháp lý cho việc khiếu nại, tố cáo đông người”. Đây là lần thứ hai chính thức và lần thứ ba trong năm có yêu cầu về “trả nợ” này.
Lẽ nào Quốc hội, mà ai cũng hiểu rằng đứng sau đó là Đảng “cầm tay chỉ việc”, lại mong muốn có Luật Biểu tình vì “nợ nhân dân đã quá lâu?”

Không còn dừng được!

Một khi nỗi bức bối và phản ứng của dân đã vượt giới hạn của chính quyền, não trạng giới cầm quyền bắt đầu thay đổi sang một hướng đối phó mới.
Ngoài động tác bắt bớ để răn đe, phương tiện “pháp quyền xã hội chủ nghĩa” còn lại là Luật Biểu tình.
Giới dư luận viên – vốn hung hăng nhất trong giọng điệu “ra luật để có cớ quậy à?” cùng những chiến dịch lên án và mạt sát dân oan khiếu kiện, người dân biểu tình chống Trung Quốc – lúc này lại đang vội vã đánh tiếng: “Cần lắm Luật Biểu tình”.

“Chính vì không có luật nên mới xảy ra bạo loạn, gây rối và ta lúng túng trong xử lý” – một luận điểm ngày càng chiếm đa số trong giới quan chức phải chường mặt ra đường trước đám đông phẫn uất.

Cuộc biểu tình của hàng vạn giáo dân – ngư dân miền Trung vào năm 2016 hẳn đã gieo vào nội bộ Đảng nỗi sợ hãi khôn tận: hai dự luật về hội và tín ngưỡng tôn giáo bất chợt được những quan chức giấu mặt nào đó nhét vào hàng loạt nội dung hoàn toàn ngược ngạo với các quyền tự do lập hội và tự do tôn giáo mà đã hiển thị trong Hiến pháp “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Một khả năng tréo ngoe có thể xảy ra vào cuối năm nay hoặc đầu năm 2017: không phải giới đấu tranh nhân quyền và người dân, mà chính quyền mới là chủ thể “mót” Luật Biểu tình nhất.

Phải có Luật Biểu tình. Có luật mới “xử được nó!”
Đó có thể là lý do để bà Nguyễn Thị Kim Ngân – Chủ tịch Quốc hội – sẽ “gật” với Luật Biểu tình như môt định chế luật bổ sung bất thường của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cho dù chỉ mới vào tháng Tám, 2016, chính bà Ngân đã bác dự luật này với lý do “làm rối loạn đất nước” mà sau đó bị dư luận chỉ trích ghê gớm.

Chỉ có điều, ra luật rồi nhưng có “quản” được hay không lại là một chuyện khác hẳn. Đói quá lâu đã hết đói. Formosa Hà Tĩnh đã biến thành giọt nước tràn ly khiến các cuộc biểu tình không cần luật của dân nghèo và nạn nhân chính sách ở Việt Nam sẽ không bao giờ dừng được nữa.

P.C.D.

__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh

Monday 24 October 2016

Đại bi kịch Việt Nam


https://vietcongonline.files.wordpress.com/2014/06/2204.jpghttp://1.bp.blogspot.com/-_cLsw_QTyF8/Uy6Xkw_Se6I/AAAAAAAAOsQ/lcScME1Np1g/s1600/XHCN.png

Đại bi kịch Việt Nam

Nguyễn Đình Cống
…xã hội Việt Nam hiện nay là sự trộn lẫn các phần của CNXH, phong kiến, tư bản, phát xít, mà thảm thương thay lại chủ yếu là trộn lẫn những phần xấu xa nhất, tệ hại nhất của từng chế độ để tạo nên một đại bi kịch cho xã hội…
“Đất nước mình ngộ quá phải không anh. Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn” (Trần Thị Lam).

Vâng, ngộ quá. Đúng là một đất nước không chịu phát triển, hoặc đúng hơn là không thể phát triển được vì mắc kẹt vào các nghịch lý, các mâu thuẫn nội tại chưa có cách gì gỡ ra được, đang loay hoay trong đại bi kịch.

1. Chế độ mang danh XHCN mà thực chất không phải XHCN

Chế độ XHCN chỉ mới manh nha ở Liên Xô và Đông Âu một thời gian đã vội tan rã. Theo tưởng tượng của Mác thì XHCN và sau đó CSCN chủ yếu là thể chế kinh tế “làm tùy sức, hưởng theo nhu cầu”, không có bóc lột, không có áp bức. Nền kinh tế đó phải dựa trên công hữu tư liệu sản xuất. Vấn đề lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyên chính vô sản chỉ là biện pháp để thực hiện nền kinh tế đó. Trong chế độ XHCN công nhân và nông dân làm chủ nhà máy, ruộng đồng, mọi người sống tự do, hạnh phúc, giáo dục và y tế miễn phí v.v… Nếu hiểu CNXH là như thế thì ở Việt Nam, ngoài việc chuyên chính do Đảng CS thao túng, không có gì đáng kể là XHCN. Không cần dẫn chứng, không phải chứng minh, cứ nhìn vào cuộc sống thực tế là thấy hết. Phải chăng ở Việt Nam người ta chỉ đưa ra nhãn mác XHCN để tuyên truyền, còn thực chất là chế độ gì chưa biết chứ chắc chắn không phải là CNXH.

2. Nước cộng hòa nhưng hành xử theo phong kiến
Chế độ phong kiến ở Việt Nam có nhiều thời kỳ thịnh trị, có vua sáng tôi hiền, dân được sống ấm no hạnh phúc, nhưng cũng nhiều lúc thối nát, gặp phải vua đểu và hèn, quan tham và ngu. Những lúc như thế dân phải chịu trăm đường khổ nhục. Bản chất của phong kiến là quyền bính tập trung vào vua quan, người dân chỉ là “thảo dân” chẳng có quyền gì, phải lo làm để nuôi bọn thống trị. Tội nặng nhất là khi quân (nói hoặc làm khác ý vua), nghĩa là không được tự do tư tưởng, không có tự do ngôn luận. Vua đứng trên luật pháp, cho sống được sống, bắt chết phải chết, nghĩa là không cần tôn trọng nhân quyền. 

ĐCS đã làm cách mạng đánh đổ phong kiến, nêu danh là nước Cộng hòa XHCN, xây dựng chính quyền của dân, do dân, vì dân, không ngờ lại tái lập phong kiến dưới hình thức khác, không có một ông vua rõ ràng mà vua tập thể, vua ở trung ương, vua tại các địa phương. Không phải tái lập được nền phong kiến thịnh trị mà là phong kiến thối nát. 

Theo mô tả của Milovan Djilas thì CS đã lập nên một “Giai cấp mới “để thống trị xã hội còn tàn bạo, thâm hiểm hơn bọn phong kiến. Đúng như bài thơ của Trung tướng Trần Độ: Những mong xóa ác ở trên đời / Ta phó thân ta với đất trời / Tưởng ác xóa rồi thay cực thiện / Ai hay cái ác cứ luân hồi. Cái ác mà Trần Độ nói đến là cái ác do bọn thống trị gây ra, bắt dân phải chịu.

3. Là tư bản man rợ nhưng được ngụy trang bằng định hướng XHCN

Chế độ kinh tế tư bản đã bắt đầu bằng những thủ đoạn man rợ, hoang dã như làm giàu trên sự bần cùng hóa công nông, hủy hoại tài nguyên và môi trường. Đó là thời kỳ vào thế kỷ 18, được Mác khảo sát để viết nên Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Tư bản luận, đồng thời tưởng tượng ra học thuyết CNCS. Tiếp theo chế độ tư bản có các thời kỳ phát triển và đến bây giờ đã có những nước được ví là thiên đường nơi hạ giới, như các nước Bắc Âu. ĐCS Việt Nam một thời gian dài đã rất nhầm lẫn khi đồng nhất tư bản với đế quốc xâm lược và quyết tâm làm tên lính xung kích đào mồ chôn chúng nó. Từ năm 1986 Việt Nam cởi trói nền kinh tế, để cho tư nhân phát triển, gọi là đổi mới, nhưng thực ra chỉ là sửa sai để đi theo con đường kinh tế thị trường của tư bản, mà còn đèo thêm định hướng XHCN. Nhiều người thắc mắc ý nghĩa của khái niệm định hướng XHCN, nó có nội hàm và ngoại diên như thế nào. 

Theo tôi, ý muốn của người đưa ra định hướng XHCN là phải đặt cả nền kinh tế thị trường ấy nằm gọn dưới sự lãnh đạo của ĐCS. Thế thì dưới sự lãnh đạo ấy nền kinh tế Việt Nam phát triển như thế nào. Rõ ràng là nó đang theo sát những thủ đoạn man rợ, hoang dã thời kỳ đầu của kinh tế tư bản, mà còn tệ hại hơn nhiều. Đó là sự cấu kết của bọn người có quyền với bọn tài phiệt trong và ngoài nước nhằm đục khoét, chiếm đoạt tài sản quốc gia, cướp ruộng đất và bóc lột nhân dân, vay nợ nước ngoài để đút túi một phần và để lại cho dân phải trả. Không những cấu kết với bọn tài phiệt mà còn bảo vệ chúng, tôn thờ chúng trong việc phá hoại đất nước (trong nền kinh tế thị trường thực sự hầu như rất hiếm có sự cấu kết này). 

Thế rồi lãnh đạo chính phủ đi cầu xin hết nước này đến nước khác để họ công nhận cho có nền kinh tế thị trường, nghĩa là đã theo được tư bản. Lúc cầu xin như thế thì cố tình cắt cái đuôi định hướng.

4. Rập khuôn theo phát xít nhưng lại hô hào dân chủ

Sự xâm lược của Phát xít Đức vào Liên xô và sự thắng lợi của Hồng quân trong đại chiến 2 làm nhiều người nhầm, cho rằng CS và phát xít là đối nghịch nhau. Thực ra không phải như vậy. Jeliu Jeliev, một trí thức Bungari, năm 1967 đã viết quyển sách Chế độ phát xít (năm 1990 Jeliu Jeliev được bầu làm Tổng thống của Bun). 

Đọc xong quyển Chế độ phát xít (Hitler-Đức và Mutxôlini-Ý) mới thấy tổ chức xã hội và sự thống trị của ĐCS Việt Nam gần như sao chép từ chế độ đó. 

Về nhà nước, đó là việc đặt Đảng bao trùm lên toàn bộ chính quyền và xã hội, tạo ra một chính quyền nữa cao hơn, là việc bầu cử hài hước để tạo ra Quốc hội bù nhìn, là tổ chức công an, mật vụ để do thám tổng thể và đàn áp, là các tòa án bị Đảng thao túng, viện kiểm sát phải phục tùng cảnh sát, là việc dùng thủ đoạn dối trá và bạo lực trong cai trị, là việc bóp nghẹt tự do dân chủ, lập các trại cải huấn v.v… Về nhân dân, đó là cách khống chế mọi tầng lớp xã hội trong các đoàn thể quần chúng, biến nhân dân thành quần thể không tính cách, mọi thứ phải phục tùng đảng, là mâu thuẩn giữa đảng và tầng lớp trí thức chân chính, là sự tan rã của tầng lớp tinh hoa, là sùng bái cá nhân lãnh tụ v.v 

Xét về mặt thống trị thì CS và phát xít giống như hai anh em sinh đôi, được bú từ một nguồn sữa. Thế nhưng cứ nghe những lời tuyên truyền thì chế độ CSVN “dân chủ đến thế là cùng”, là dân chủ gấp hàng ngàn, hàng vạn lần các nước tư bản. Không biết họ nói thế và có tin vào điều đó không vì không thấy họ ngượng mồm một chút nào cả. Cũng không biết họ định đánh lừa ai. Hay là họ đã quen cho rằng dân chúng chỉ là một lũ người bảo sao nghe vậy. Mà khổ thay, vẫn có người tin và phụ họa lời họ nói.

CSVN và phát xít giống nhau nhiều điểm về thống trị, về đàn áp, nhưng có vài điểm CS không học được phát xít, đó là sự minh bạch và vững mạnh của chính quyền, là sự phát triển kinh tế hùng hậu. Cũng chưa nghe nói đến đảng phát xít phải ra nghị quyết làm trong sạch và chỉnh đốn.

5. Đại bi kịch

Tóm lại xã hội Việt Nam hiện nay là sự trộn lẫn các phần của CNXH, phong kiến, tư bản, phát xít, mà thảm thương thay lại chủ yếu là trộn lẫn những phần xấu xa nhất, tệ hại nhất của từng chế độ để tạo nên một đại bi kịch cho xã hội (về hiện tượng, nhiều người thấy rõ, xin không kể ra dài dòng). Sẽ có người hỏi, nói như vậy có bôi đen quá mức không? 

Sao không nhìn vào những sân bay, những con đường, những chiếc cầu, những tòa nhà cao tầng được xây dựng ở khắp nới, sao không nhìn vào xuất khẩu tôm cá, lúa gạo, hoa quả, dầu thô, quần áo, giày dép, sao không nhìn vào vị thế ngoại giao với nhiều nước và Liên Hiệp Quốc, sao không biết sự tăng trưởng GDP mỗi năm đều trên 6%, sao không so sánh đời sống của dân chúng bây giờ với trước 1945 và thời kỳ 1980 v.v… 

Xin thưa, có nhìn thấy chứ. Nếu không có những thứ đó thì Đảng tiêu vong rồi, dân tộc lụn bại lâu rồi chứ đâu còn như bây giờ để thảo luận. Có so sánh chứ. So sánh theo phương dọc, nghĩa là so sánh ta với ta qua thời gian, và so sánh theo phương ngang, là so sánh ta với người khác trong cùng thời gian và hoàn cảnh. Khi so sánh theo phương ngang mới thấy chúng ta thua kém người ta quá chừng.

Có lý thuyết cho rằng kinh tế của xã hội phát triển hơn kém nhau ở năng suất lao động, và năng suất đó của Việt Nam đứng vào hạng thấp của khu vực và thế giới. Người ta kêu gọi tăng năng suất nhưng không biết tăng bằng cách nào. Tuy vậy năng suất lao động cũng chỉ là một chỉ tiêu của kinh tế. Quan trọng hơn là chỉ tiêu hiệu quả . Có thể hiểu sơ lược: Hiệu quả P =[(T – C) / C] 100%. 

Trong đó T là phần thu được, C là phần chi phí bỏ ra. Trong phần lớn báo cáo của mọi cấp mọi ngành người ta chủ yếu nêu ra T mà ít quan tâm đến C và P. Nếu tính được P cho nền kinh tế Việt Nam trong mấy chục năm qua thì thấy đó là một số âm có giá trị tuyệt đối khá lớn. Hiệu quả âm có nghĩa là kết quả càng lớn, làm càng nhiều thì thua lỗ càng nặng.Thể hiện rõ nhất của việc này là vay nợ nước ngoài càng ngày càng tăng và trước mắt chưa có cách gì trả được. Hàng năm phải vay thêm chỉ để trả phần tiền lãi.

Kinh doanh, khởi nghiệp, các dự án phần lớn không lành mạnh. Đa số doanh nhân làm giàu không phải bằng trí tuệ, sáng tạo mà bằng quan hệ đen tối, bất chính với thế lực có quyền (chia chác, hối lộ). Những doanh nghiệp làm ăn chân chính, không chịu chấp nhận liên minh ma quỷ với thế lực có quyền thường bị đe dọa, bị phá phách, bị triệt hạ. Vụ bà Ba Sương với Nông trường Sông Hậu, vụ kiện ra Tòa án quốc tế của ông Trịnh Vĩnh Bình, quốc tịch Hà Lan, đòi Chính phủ Việt Nam bồi thường 1 tỷ USD là các dẫn chứng sinh động. Làm kinh tế như vậy chủ yếu là trò trộm cướp, lừa đảo chứ không phải phát triển đúng hướng.

Mà phát triển xã hội đâu phải chỉ có kinh tế. Còn có thứ cần hơn là văn hóa, là đạo đức. Phát triển kinh tế với hiệu quả âm, lại phá nát tài nguyên và môi trường, hủy hoại văn hóa và đạo đức thì cái giá của nó là quá đắt. Trước năm 1986, vì phạm quá nhiều sai lầm nghiêm trọng trong chính sách kinh tế theo định hướng XHCN mà đất nước lâm vào cảnh đói kém, kiệt quệ. Tình trạng đó làm rối trí và mờ mắt nhiều người nên từ năm 1986, để sửa sai người ta lại đổ xô vào phát triển kinh tế bất chấp mọi tai họa về môi trường và đạo đức mà nó mang lại.

Để phát triển xã hội, ngoài kinh tế, văn hóa, đạo đức, còn cần đến tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, một cuộc sống yên bình, một xã hội tin yêu, thân thiện, chứ đâu có phải chỉ kinh tế. Mà về kinh tế, con số tăng trưởng GDP hàng năm cũng rất đáng ngờ. Tăng như thế mà sao năm nào ngân sách cũng thâm hụt, mà nợ nần vẫn chồng chất, hay là phần lớn ngân sách tăng được lọt vào túi cá nhân.

Khi nhìn xã hội hiện tại nhiều người thấy rõ (vì không giấu đi đâu được) những tội ác như hủy hoại môi trường, nạn bạo hành, dân oan, hàng giả, hàng lậu, thực phẩm bẩn v.v.., những quốc nạn như tham nhũng, lãng phí, mua quan bán tước, giáo dục xuống cấp v.v…

Đó chỉ là những thể hiện bề ngoài. 

Tôi cho rằng tội ác lớn nhất nằm ở bên trong, phần nào bị che giấu, mang sắc thái vô hình. Đó là sự phá nát truyền thống đạo lý và văn hóa của dân tộc, là để cho việc gian dối trở thành phương châm xử thế từ quan đến dân, là sự hủy hoại thành phần tinh hoa của dân tộc để phải chấp nhận những kẻ vừa thiếu trí tuệ vừa kém đạo đức giữ những cương vị lãnh đạo và quản lý đất nước. Công nhận rằng sự phá nát, sự hủy hoại này không phải là ý đồ tự giác của CS, họ không cố tình làm những việc đó, nhưng nó là kết quả tất yếu của dấu tranh giai cấp, của vô sản chuyên chính, của công hữu hóa tư liệu sản xuất, của nền độc tài đảng trị. Những kết quả tất yếu này ban đầu những người CS chưa nhận thấy, đến khi nó bộc lộ rõ ràng thì cố tình che giấu hoặc ngụy biện để bao che.

Trong lúc nội chính còn bị rối như tơ vò thì thảm họa từ Trung cộng lại chụp xuống. Sự bành trướng với ý đồ “Bình thiên hạ” của Đại Hán đã hủy diệt dần dần các dân tộc Mãn, Mông, Hồi, Tạng. Các dân tộc này đã có thời kỳ huy hoàng trong lịch sử, nhưng rồi vì chung ý thức hệ CS mà bị người Hán nô dịch . Đại Hán không ngừng âm mưu thôn tính và hủy diệt dân tộc Việt. Theo dự đoán của cố Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thì sau Hội nghị Thành Đô Việt Nam có thể mắc vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 2. Thế mà lãnh đạo Đảng và Nhà nước cam tâm thần phục Đại Hán. Đó cũng là một trong những đại bi kịch.

Vạch ra như thế để rồi tìm con đường khắc phục. Việc đó như thế nào đã có nhiều người bàn tới. Riêng với tôi, trước đây cũng đã có vài lần bàn đến. Lần này bài viết đã khá dài, xin hẹn vào dịp khác.

N.Đ.C.
Tác giả gửi BVN.



__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh

Featured post

Bản Tin Cuối Ngày 20/4/2024

Popular Posts

My Blog List