heo VN


Image result for coronavirus

VN là chổ xả rác cho bọn tàu, người VN tỉnh ngũ đi.





ĐỐT LŨA ĐI EM ĐỂ DIỆT QUÂN THÙ.



https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEiawWm0mrEB_hcAesPVxwoBJelVLAqPb8O0CUvAO_9p5nbh9eDsduClHNeAVWV40wHXI4rTTmj6G0DOp08i-ajnN_e5bv1h0eVz8g_3kQAVE2Wj-x4w84-n5q_1Zdji8bD8xH7PfSrUcqo/s1600/Vi+moi+truong+trong+sach+cho+Viet+Nam+.jpg

ĐỐT LŨA ĐI EM ĐỂ DIỆT QUÂN THÙ.
Biểu tình 5/3/2017
Image result for bom xang
https://www.youtube.com/results?sp=EgIIAg%253D%253D&q=bi%E1%BB%83u+t%C3%ACnh+2017

Friday, 11 May 2018

Khai Dân Trí - Lisa Phạm Số 433 Live stream 19h VN (8h sáng hoa kỳ ) mới...

Người khổng lồ chân đất sét



  LE MANH HUNG :Người khổng lồ chân đất sét
 
Thứ Bảy vừa rồi, một buổi lễ gây nhiều tranh cãi đã xảy ra tại thành phố nhỏ Trier ở Ðức. Có mặt để khánh thành một pho tượng đồng khổng lồ Karl Marx mà đảng Cộng Sản Trung Cộng tặng kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông là Chủ Tịch Ủy Hội Châu Âu Jean Claude Juncker. Ðiều mỉa mai là ông Juncker, một nhà chính trị “bourgeois” bảo thủ nếu có sống dưới một chế độ Marxist thì số phận may mắn nhất mà ông có thể hy vọng là một thời gian dài trong trại tập trung.
Khi vào ngày 5 Tháng Năm, năm 1818, Heinrich và Henriette Marx cho cậu bé Karl ra chào đời, chắc họ không thể nào tưởng tượng được các niềm hy vọng không tưởng cũng như những khủng khiếp đẫm máu mà nay đã trở thành dính liền với cái tên Karl Marx.
Hầu hết các chế độ dựa trên các tư tưởng của Marx nay đã rơi vào sọt rác của lịch sử. Vào lúc này những chế độ tự nhận mình là Marxist như Trung Cộng hay Việt Nam lại chính là những chế độ thực hiện một hình thức tư bản chủ nghĩa tàn bạo nhất. Nhưng cái tên Karl Marx vẫn còn là đồng nghĩa với cách mạng tàn bạo, lý tưởng không tưởng và một chế độ độc tài toàn trị.
Ðối với những người chỉ trích ông, Marx là một kẻ cuồng tín mà những tư tưởng đã kích động tạo ra một số chế độ tàn bạo nhất trong lịch sử từ những trại cải tạo của Stalin, Mao, Hồ cho đến các cánh đồng chết của Pol Pot ở Cambodia.
Mặc dầu vậy nhưng tư tưởng của ông vẫn còn hấp dẫn rất nhiều người. Và hai cuốn sách chính của ông, “Bản tuyên ngôn Cộng Sản” và “Das Kapital” vẫn còn được đọc tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vì sao thế giới lại bị hấp dẫn bởi những tư tưởng của một con người mà đã tạo ra bao nhiêu đau khổ cho nhân loại như vậy?
Ðó là vì trên tất cả các nhà kinh tế và triết gia hiện đại, Marx vẫn là một trong số nhỏ những nhà trí thức mà có thể tự hào là đã thay đổi cung cách mà chúng ta nhìn thế giới. Và mặc dầu những tư tưởng của ông – tầm quan trọng của đấu tranh giai cấp, nhu cầu cấp bách phải làm cách mạng, ước mơ một xã hội xã hội chủ nghĩa trong đó mọi người đều bình đẳng – là những điều gây tranh cãi khổng lồ, nhưng chúng ta không thể nào tránh được chúng. Quả thật, trên một phương diện nào đó, chúng ta đều là những người Marxist.
Marx không phải là một nhà khoa học như ông vẫn ước mong. Nhưng ông là một nhà tư tưởng lớn: ông đưa ra một lý thuyết về xã hội bị thúc đẩy bởi những lực kinh tế – không chỉ bởi riêng những phương tiện sản xuất mà bởi quan hệ giữa chủ và công nhân – mà qua đó thúc đẩy xã hội phải bước qua một số giai đoạn phát triển. Ông cũng là một cây bút xuất sắc. Ai mà có thể quên được nhận xét của ông rằng lịch sử bao giờ cũng lập lại “lần đầu là một bi kịch, lần thứ hai là một trò hề.”
Các tư tưởng của ông có tính cách tôn giáo hơn là khoa học – ta có thể gọi chúng là tôn giáo soạn lại cho một thời đại thế quyền. Ông là một nhà tiên tri hậu kỳ tả lại tiến trình sa ngã và cứu rỗi con người trong Thánh Kinh dưới một hình thức mới. Sự sa ngã được biểu tượng bằng chủ nghĩa tư bản và nhân loại được cứu rỗi bởi giai cấp vô sản nổi lên chống lại những kẻ bóc lột và thành lập một thiên đường Cộng Sản nơi hạ giới.
Trong những năm về sau những đệ tử của ông tìm cách mang những ý tưởng này vào hiện thực. Trên nhiều phương diện, thế kỷ thứ 20 là thế kỷ của Chủ Thuyết Marx trong hành động. Từ cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cho đến khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ, hết chế độ này đến chế độ khác tìm cách thực hiện những tư tưởng cách mạng của ông. Nhưng thay vì thiên đường nơi hạ giới họ chỉ làm ra những địa ngục. Tại riêng Liên Xô, đệ tử ông, Stalin, giết chết ít nhất là 12 triệu người. Tại Trung Cộng, Mao còn giết chết nhiều hơn nữa, nhiều chuyên gia cho rằng qua những đợt thanh trừng, cải tạo và Cách Mạng Văn Hóa của các thập niên 50 và 60 khoảng 45 triệu người Trung Quốc đã thiệt mạng.
Tại Việt Nam các cuộc đấu tố cải cách ruộng đất cũng đã giết chết ít nhất là khoảng trên một triệu người.
Ðiển hình rùng rợn nhất là Cambodia giữa năm 1975 và 1979 trong đó Khmer Ðỏ của Pol Pot tìm cách thành lập một thiên đường Cộng Sản chỉ trong một sáng một chiều. Chúng bắt toàn bộ dân chúng các thành phố của Cambodia về nhà quê. Giết tất cả mọi thầy giáo, thương gia và các thành viên của giai cấp trung lưu và không tha cả những người đeo kính cận. Trong việc theo đuổi thiên đường của Marx, những người Khmer Ðỏ đã giết đến một phần tư dân số của Cambodia chỉ trong vòng bốn năm. Chưa bao giờ ta có thể thấy một bằng chứng lạnh người hơn về những gì xảy ra khi các tư tưởng không tưởng trở thành những hiện thực đẫm máu.
Người ta có thể biện luận rằng đó không phải là lỗi ở Marx mà là vì các đệ tử của ông hiểu lầm ông. Quả thật với tư cách là một con người luôn luôn bất đồng ý kiến và không ngại ngùng nói lên cái gì mình nghĩ, nếu Marx có sống trong các chế độ tự nhận là theo tư tưởng của ông có lẽ ông đã kết thúc cuộc sống trong một nấm mồ nông với một viên đạn vào đầu.
Thế nhưng tối hậu Marx cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của các tông đồ mình. Tuy rằng họ có thể khinh thị các người khác và tham nhũng, nhưng những người lãnh đạo các quốc gia Cộng Sản không bao giờ hoài nghi rằng họ không phải là những người Marxist chân chính. Mao tin tưởng rằng các tư tưởng của Marx phản ảnh “cái gì tốt, đẹp và thiện lương nhất.” Thí dụ điển hình nhất là Stalin. Như sử gia Mỹ Stephen Kotkin đã chỉ ra nhà độc tài Xô Viết này không phải là một con quái vật. Ông chỉ trở thành một con quái vật vì ông là một người Marxist. Hồi nhỏ Stalin đã đi tu vì muốn trở thành một giáo sĩ. Stalin không giết chết hàng triệu người bởi vì ông thích giết. Ông làm vậy chỉ vì ông tin là lý thuyết của Marx đòi hỏi phải làm vậy. Ông nghĩ rằng cái chết của họ là một cái giá đáng phải trả cho việc xây dựng thiên đường Cộng Sản. Và khi làm vậy ông chỉ thực hiện theo đúng những gì Marx viết. Năm 1848 sau cuộc cách mạng không thành tại Ðức, Marx viết: “Chỉ có một cách mà những giẫy chết khủng bố của xã hội cũ và tiếng khóc chào đời đẫm máu của một xã hội mới có thể làm ngắn đi, đơn giản hóa và tập trung là dùng khủng bố cách mạng.”
Như vậy vì sao bất chấp những thất bại của các chế độ dựa trên chủ nghĩa Marx và tính tàn bạo bẩm sinh nằm trong chủ nghĩa này, các tư tưởng của Marx vẫn còn hấp dẫn người ta vào thập niên thứ hai của thế kỷ 21 này?
Lý do chính làm cho người ta còn tiếp tục quan tâm đến Marx là vì những ý tưởng của ông nay đã trở lại có ý nghĩa đối với xã hội.
Hệ thống tư bản theo Marx tự bản chất của nó là một hệ thống toàn cầu. Và điều đó cũng đúng với hiện nay như là dưới thời Victoria mà Marx sống. Hai phát triển đáng chú ý nhất của thời đại sau Thế Chiến Thứ Hai là việc tháo gỡ dần các rào cản ngăn chặn việc di chuyển tự do của các yếu tố sản xuất – hàng hóa, tư bản và ở một mức nào đó, lao động.
Trong tiến trình bành trướng này, theo Marx, chế độ tư bản tạo ra một đạo quân lao động nghèo đói sống nhờ từ công việc này đến công việc khác. Thế nhưng trong giai đoạn hậu chiến điều đó trông có vẻ như là một sai lầm vớ vẩn. Thay vì “không có gì để mất ngoài xiềng xích của họ” dân chúng lao động của thế giới, ít nhất tại các nước giầu có đã có công việc an toàn, nhà cửa tại vùng ngoại ô và một tải sản đáng kể.
Nhưng cái sự đồng thuận vốn đã chuyển quyền lực từ tư bản sang lao động và tạo ra một bước tiến lớn trong mức sống của xã hội đang phai mờ. Toàn cầu hóa và sự nổi lên của một nền kinh tế gọi là kinh tế “gig” đã dẫn đến một hệ thống tư bản trông giống như hệ thống tư bản mà Marx mô tả, trong đó người công nhân sống từ công việc này sang công việc khác không có gì bảo đảm cho tương lai. Nền kinh tế “gig” này đã khiến cho tại Anh giá nhà cao đến mức đa số thanh niên khó có hy vọng gì mua được căn nhà của mình cho đến khi ít nhất là 45 tuổi. Còn tại Mỹ hầu hết các công nhân Mỹ cho biết họ chỉ có vài trăm đô la trong trương mục của mình. Giai cấp vô sản của Marx nay đang được tái tạo lại tại các nước trên thế giới.
Sự chuyển ngược quyền lực từ lao động sang tư bản cuối cùng cũng đã tạo ra một phản ứng tại các xã hội nhưng lần này là dân túy từ phía hữu. Thành ra không có gì lạ khi mà cuốn sách kinh tế thành công nhất của mấy năm gần đây là cuốn “Capital in the Twenty-First Century” của Thomas Piketty mà ngay chính cái tên cũng gợi lại cuốn “tác phẩm tuyệt tác – magnum opus” của Marx và những quan tâm của ông về bất công xã hội.
Trên tấm bia của Marx tại nghĩa trang Highgate phía Bắc Luân Ðôn có khắc mấy hàng chữ lấy từ tác phẩm của ông: “Các triết gia chỉ giải thích thế giới bằng cách này hay cách khác. Vấn đề là phải thay đổi nó.”
Trong quá khứ nhiều thế hệ thanh niên đã nghe theo tiếng gọi đó và nổi lên. Và trong cái tự phụ là đã nắm được chân lý tuyệt đối, họ đã vứt bỏ không những lịch sử và truyền thống mà còn cả hàng trăm triệu sinh mạng. Nhân danh tiến bộ và tất yếu lịch sử họ đã giết không biết bao nhiêu đàn ông, đàn bà và trẻ em như những sinh vật trong lò sát sinh.
Lịch sử nay đã tái diễn lại như Marx nhận xét. Hy vọng rằng cũng giống như nhận xét của ông nếu lần đầu là một bi kịch thì lần sau sẽ chỉ là một trò hề.
Lê Mạnh Hùng



__._,_.___

Posted by: Truc Chi 








From: giao tran
From: Chau Nguyen
Subject:  CHỢ TRỜI SÀI GÒN SAU 1975

 
Hai trụ đèn, không người lái, hai cửa sổ… Xem thử đi các đồng chí… Cái đồng hồ này đáng giá cả một gia tài, nhưng bây giờ chỉ bán với giá ủng hộ…
– Chụp ảnh lấy liền chỉ mất 30 giây bằng máy Polaroid tối tân của Mỹ… Chụp đầy đủ cả bộ Đạp-Đổng-Đài để làm kỷ niệm… Chỉ còn một ít giấy ảnh, chụp ngay kẻo hết… Giá chỉ một ngàn đồng Ngụy một tấm…
Vài chú bộ đội tần ngần dừng chân đứng lại, một chú thắc mắc:
– Chụp 30 giây “nà thế lào” ?
– Chỉ sau 30 giây là đồng chí có một tấm ảnh bên cạnh xe đạp, đồng hồ đeo trên tay và radio đeo bên nách… Chụp đi đồng chí rồi gửi về Bắc làm kỷ niệm, chỉ mất có 1 đồng tiền mới, không có tiền mới thì trả tiền Ngụy cũng được !


    Đạo cụ’ của anh thợ chụp hình gồm chiếc xe đạp, cái vỏ radio bằng da và nếu người chụp không có đồng hồ anh ta sẵn sàng cho mượn để thực hiện một bộ sưu tập Đạp-Đổng-Đài như quảng cáo.
Mặt hàng ăn khách nhất ở chợ trời là “3D” (Đạp, Đổng, Đài) được đánh giá là ‘đỉnh cao’ của sự sung túc theo tiêu chuẩn người miền Bắc. Đồng hồ họ thích loại có nhiều cửa sổ’, một cửa sổ thì có ngày, hai cửa sổ thì có cả ngày lẫn thứ nhưng không biết họ có hiểu những chữ Mon, Tue, Wed… hay không ?
Radio thì ở miền Nam hầu như gia đình nào cũng có, nào là Sony, National, Zenith… có đủ cả AM lẫn FM và máy phát băng nhạc hiệu Akai. Tình thế đã thay đổi nên nhu cầu nghe radio không còn cần thiết, cách tốt nhất là đem ra chợ trời bán lấy tiền mua gạo.
Xe đạp thì Sài Gòn cũng không hiếm và chạy đầy đường, kiểu cách thì đa dạng không như xe Phượng Hoàng của Trung Quốc vốn lâu nay làm chúa đường phố Hà Nội.
Chợ trời là ‘nền kinh tế mới nổi’ trong thời kỳ Sài Gòn vừa đổi chủ. Chợ trời, ve chai, lạc soong nở rộ khắp hang cùng ngõ hẻm. Bụng đói nên mọi người phải ra đường kiếm kế mưu sinh. Trong hàng ngũ dân chợ trời, những người chân chính kiếm sống gồm đủ thành phần.
                                                                 
   Người ta đồn ca sĩ Thái Thanh đi bán xôi ở khu vườn hoa Công lý, nhạc sĩ Hoài Bắc (Phạm Đình Chương) ra chợ trời Sài Gòn. Thế là gần như ban Thăng Long xuống đường hợp ca bản… chợ trời !
Nhà văn Nguyễn Thụy Long với tác phẩm nổi tiếng Loan Mắt Nhung vốn hiền lành là thế nhưng cũng phải chạy chợ trời để nuôi con khi bị vợ bỏ. Nguyễn Thụy Long tâm sự : “Ra chợ trời có nhiều mánh kiếm ăn nhưng tôi chẳng được ‘quý phái’ như nhiều tay chợ trời khác. Như ký giả Hồng Dương buôn bán vàng ở chợ Lê Thánh Tôn, vải vóc, quần áo cũ hay sách báo lậu, môi giới ăn hoa hồng. Tôi cũng là dân chợ trời nhưng mua đi bán lại vài ba cái bù loong dỉ nên rất là đói rách…”
Nhà giáo vì ‘mất dậy’, ‘vô lương’ nên phải đứng chợ trời. Công chức mất sở làm phải ra chợ trời còn sĩ quan ‘ngụy’ bận đi cải tạo… Từ xưa, trong mắt số đông người miền Nam, chợ trời đồng nghĩa với sự lừa đảo, dối trá, ma lanh, láu cá. ‘Dân chợ trời’ là một cụm từ miệt thị chỉ những tay mua bán theo cơ hội, thời cơ nhưng trong thời điêu linh, Sài Gòn biến thành một chợ trời khổng lồ, trong đó đủ các thành phần xã hội, thượng vàng hạ cám. Tất cả chỉ vì miếng ăn, có cái tọng vào họng là được, bất kể sang hèn.
                                                           
    Chợ trời là một hiện tượng nở rộ tại Sài Gòn trong thời điêu linh, kể từ sau 30/4/1975. Về mặt kinh tế, những nơi nào có nhu cầu mua-bán thì ở đó có chợ trời. Tuy nhiên, xét cho cùng, chợ trời thời điêu linh là một hình thức tự phát khi nhu cầu của người miền Nam cần bán những mặt hàng được coi là không còn cần thiết trong tình hình mới gặp nhu cầu của người mua là những người đến từ phương Bắc, họ săn nhặt những mặt hàng lạ còn sót lại từ thế giới tư bản niền Nam.
Bước vào khu vục chợ trời, bạn sẽ được chào đón bằng câu : ‘Có gì bán không anh ?’. Nhiều người tỏ vẻ bất bình trước câu hỏi sỗ sàng đó, có người lại trả đũa một cách khó chịu : ‘Tôi bán tôi, anh có mua không ?’. Sau này, không ngờ câu hỏi cay cú đó lại được sử dụng ở các chợ người, hay còn gọi là ‘chợ lao động’.
Ở gần khu vực tôi sinh sống có chợ trời Lăng Cha Cả. Chợ buôn bán đủ các loại mặt hàng, từ ‘thượng vàng’ đến ‘hạ cám’. Tại đây, tôi đã từng đem bán cái nhẫn tốt nghiệp United States Defense Language Institute và chiếc quần jeans có cái nhãn Levi’s gắn bên cạnh túi. Bán được 2 món đồ thấy nhẹ hẳn người vì không còn ‘tàn dư Mỹ Ngụy’ trên người mà lại có tiền cho vợ con đong gạo ‘bông cỏ’, mua khoai lang sùng, khoai mì chạy chỉ và cả ‘cao lương’ tức hột bo bo cứng như đá để độn cơm. Thật đúng là thời ‘cao lương mỹ vị’ đến độ ‘cao lương’ trở thành món tầm thường mà ai cũng ngán. Phải nói là ngán ngẩm mới đúng.
Nhà văn Hoàng Hải Thủy vốn là người rất ít khi làm thơ nhưng chợ trời đã khiến ông ‘tức cảnh’ với những dòng dưới đây :
                                                               
Xem đồ ta, ngắm đồ người cho vui
Tìm vui chỉ thấy ngậm ngùi

Vỉa hè này những khóc cười bầy ra
Lạc loài áo gấm, quần hoa

Này trong khuê các, sao mà đến đây ?
Chợ bầy những đọa cùng đầy
Vàng phơi nắng quái, ngọc vầy mưa sa

Bán đồ toàn những người ta
Mua đồ thì rặt những Ma cùng Mường
Chợ Trời hay Chợ Đoạn Trường

Đầu âm phủ, cuối thiên đường là đây !

Ở chợ trời, người bán nhiều hơn người mua, dĩ nhiên đa số người mua là những ‘Ma’ cùng ‘Mường’, họ là những từ phương xa đổ vào thành phố. Họ là những chiến binh chất phác, chân quê, ‘xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước’ và khi được đặt chân lên Hòn Ngọc Viễn Đông họ ngỡ ngàng như trong mơ, hàng hóa phong phú như ở các nước… Đông Âu!

Bên cạnh những chiến binh chân chất là những anh bộ đội có tính ‘sĩ diện hão’. Hỏi anh ngoài Bắc có ‘ti vi’ không, anh trả lời như một cái máy ghi âm Akai: “Thứ đó chạy đầy đường”. Hình như, theo sự hiểu biết của anh, TV là một loại xe Honda nên nói liều là… chạy đầy đường !
                                                         

   Họ bám lấy người đi lãnh đồ như ruồi, không tiền đóng thuế cho hải quan, họ tình nguyện đóng thuế giùm, miễn là bán lại đồ cho họ.

Tôi đã chứng kiến nhiều cảnh cười ra nước mắt ở chỗ lãnh đồ gửi từ Mỹ về. Trong thùng đồ gửi về có một cây thuốc lá Pall Mall. Cây thuốc thơm tho đã nằm trên bàn kiểm hàng, thủ tục thuế má cũng đã đóng đủ cả chỉ còn việc người lãnh đồ chờ nhận. Tuy nhiên, nhân viên Hải quan (quan thuế) cho biết rằng thân nhân bên Mỹ đã gửi đồ một cách… phạm pháp. Người lãnh đồ thắc mắc, hồi hộp hỏi :
– Thưa… trong những gói thuốc này có… héroin hay sao ?
– Không, nhưng nhà nước xử nhẹ thôi, sẽ mua lại với giá chính thức, và cho lại anh một gói hút lấy thảo gọi là tình nghĩa với bà con.
Người lãnh đồ sống trong tâm trạng của kẻ đi xin và được cho những gì… nhà nước không cấm. Thuốc Pall Mall vẫn bầy bán trên lề đường Đồng Khởi, hồi xưa gọi là Tự Do.
                                                    
   Người ta mới hiểu ra, thuốc lá tịch thu ở chỗ lãnh đồ có chân chạy ra đường Đồng Khởi.
Hàng từ ngoại quốc gửi về, nằm trong kho, người nhận quà được giấy báo, đôi khi hỡi ơi, chỉ còn thùng bị rút ruột hoặc bị đánh tráo. Vải từ bên Mỹ gửi về cho thân nhân ở quê nhà toàn dệt ở Việt Nam, nhà máy dệt Nam Định chẳng hạn. Gặp những chuyện đó chỉ có nước cắn răng chịu trận. Thân phận con kiến sao kiện được củ khoai.
Chuyện đó xảy ra hàng ngày nên không còn là chuyện la. Rồi giai cấp mới làm kinh doanh qua việc nuôi chó bẹc giê kiếm lời. Một giai cấp nhà giầu mới ra đời, người ta chăm sóc chó, cho chó ăn cả ký lô chả quế, ăn phở tái nạm gầu.
Lời đồn đại về lối sống của giai cấp mới này nhiều vô số kể, nhưng tôi không thể tin hết nếu chưa kiểm chứng. Trong hồi ức này những điều tôi viết ra đều đã được kiểm chứng và đúng là sự thật. Tôi không “bắt” ai phải tin hay nghĩ gì khác.
                                          
   Cái cột đèn trong thành phố nó bị trồng cứng xuống lề đường nên đành đứng nguyên một chỗ, còn đồ Mỹ có chân, nó chạy ra chợ trời ! Nồi cơm điện, bàn ủi, hay đổng-đài nó có thể chạy ra đến chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, Tôn Thất Đạm. Nơi đây người ta bán chúng với bất cứ giá nào, dân chợ trời mua tùy theo túi tiền có sẵn và người mua về bao giờ cũng vui vì có được món hàng mà mình ao ước !
                                                         
   Chợ trời thuốc tây lớn nhất Sài Gòn trải dài suốt một con đường bên hông chợ Tân Định. Người ta có thể tìm mua đủ các loại tân dược tại đây, từ những viên thuốc cảm, sổ mũi, nhức đầu cho đến thuốc ‘đặc trị’ huyết áp, tiểu đường, thấp khớp – cái thì còn ‘đát’ nhưng có cái hết ‘đát’ từ mấy năm về trước. Nguồn hàng có xuất xứ đa dạng : thuốc từ các viện bào chế trước 1975, thuốc từ các nước ‘xã hội chủ nghĩa anh em’ và sau này còn có cả thuốc từ các nước tư bản do thân nhân từ nước ngoài gửi về.

Nguồn thuốc gửi về có đến 90% tìm đường ra chợ trời vì người nhận thuốc không phải để uống mà để bán đi lấy tiền lo cơm áo hàng ngày
.
                                                         

   Người ta quan niệm, chống đói quan trọng hơn chống bệnh tật gấp nghìn lần. Thân nhân ở nước ngoài được báo là cứ gửi thuốc về, mặt hàng này có giá rất cao nếu so với quần áo, vải vóc, mỹ phẩn, kẹo bánh. Hơn nữa, trọng lượng lại rất nhẹ cân nếu so với các ‘hàng viện trợ’ khác, đỡ tốn cước phí đối với người gửi.

Từ Mỹ, từ Pháp cũng xuất hiện những công ty của người Việt chuyên gửi thuốc tây về Việt Nam với danh sách các loại thuốc ‘hot’ nhất, có nghĩa là bán được nhiều tiền nhất trên thị trường chợ trời. Tại Sài Gòn có cả một hệ thống thu mua mặt hàng thuốc tây, họ là dân chợ trời nhưng đến tận nhà. Hệ thống chân rết này bắt đầu từ những tay ‘cò’, có mặt tại khu lãnh hàng trên phi trường Tân Sơn Nhất hay bưu điện, thấy ai lãnh thuốc là xin địa chỉ đến tận nhà để mua, vừa kín đáo lại vừa an toàn, không sợ công an ‘vồ’.

                                                                       
   Dân chợ trời thuốc tây cũng xuất thân đủ mọi ngành nghề: từ ông dược sĩ chính hiệu bị mất sở làm đến anh “sỹ quan ngụy” vừa tốt nghiệp cải tạo, từ tên chuyên nghiệp mánh mung đầu đường xó chợ đến kẻ trong túi không có tiền uống cà phê cũng ra chợ trời buôn nước bọt. Họ đứng ra làm trung gian, dẫn mối.

Bạn cải tạo của tôi ra chợ trời kiếm ăn cũng không ít. ‘Tổng hành dinh’ của đám chợ trời chúng tôi là nhà Nam ‘đầu bạc’ ở đường Hai Bà Trưng, ngay chân Cầu Kiệu, nên rất gần với chợ trời thuốc tây trên đường Nguyễn Hữu Cầu, bên hông chợ Tân Định.
Nam vốn là bác sĩ quân y, khi đi học tập về sống chung với ca sĩ Phương Hồng Quế và mở phòng mạch trên đường Triệu Quang Phục trong quận 5, Chợ Lớn. Căn nhà mặt tiền đường Hai Bà Trưng vốn là của gia đình Quế nên được đám bạn chọn là nơi ra vào từ chợ trời.

Thuốc tây thu gom ở chợ Nguyễn Hữu Cầu được gửi tạm tại đây trước khi sang tay, mua đi bán lại. Mỗi khi bác sĩ Nam cần thuốc cho phòng mạch cũng đều nhờ anh em chợ trời săn lùng, anh em không ra chợ trời Nam cũng sẵn sàng mua ủng hộ mỗi khi có thuốc tây từ nước ngoài gửi về làm quà. Phần tôi thỉnh thoảng cũng có chút quà nên nhờ Nam mua giúp.
                                                               

   Tôi hiểu, những lọ vitamin nếu đem ra chợ trời bán sẽ bị chê ỏng chê eo nên hễ có là tôi nhờ Nam mua… ủng hộ!
Nhóm chợ trời thuốc tây chúng tôi gồm đủ thành phần đã tốt nghiệp ‘đại học cải tạo’: Huệ (sĩ quan Hải quân… mắc cạn), Cường ‘điếc’ (pháo binh Thủy quân Lục chiến nên tai bị nghễnh ngãng vì tiếng súng), chú Định (dân Quốc gia Hành chính, đã từng là phó quận), Quyền (Giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội bị… ‘mất dậy’)…
Riêng tôi được miễn ‘công tác ra chợ trời thuốc tây kiếm sống’, thay vào đó là chân ‘gia sư’ kèm Anh Văn cho Phương Hồng Quế, Phương Dung, Thu Hiền và một số bạn bè của Quế cũng như con cái của các bạn cải tạo. Ông thầy ngày một đông học trò nên cuộc sống cũng có phần dễ thở trong suốt thời điêu linh.

Tan chợ, anh em thường tụ họp tại Hai Bà Trưng, thỉnh thoảng vào cuối tuần lại chung tiền tổ chức ‘giải lao’ sau những ngày ‘hành sự’ tại chợ Nguyễn Hữu Cầu. Tết Trung Thu, Quế lại còn tổ chức cho con cái ‘cái bang’ về Hai Bà Trưng đốt lồng đèn, ăn bánh Trung thu…

Giờ thì anh em cải tạo, người nào cũng ‘sáu, bẩy bó’, lưu lạc bốn phương, kẻ ở lại trong nước, người đã ra nước ngoài. Ngồi viết lại chuyện chợ trời để nhớ lại một thời điêu linh.

                                           (theo Hướng Dương txd)


                   Nghề nghiệp buổi giao thời

                                   Nghề nghiệp buổi giao thời

Nghề nghiệp buổi giao thời

Chỉ vài ngày sau khi Việt Cộng vào Sài Gòn, đầu xóm nhà tôi trong cư xá Quân Đội, thiên hạ đã nghe tiếng trống l...


__._,_.___

Posted by: Truc Chi













Featured post

🔥Lisa Pham Khai Dân Trí Ngày-18/11/2024

My Blog List