Thứ Bảy vừa rồi, một buổi lễ gây nhiều tranh cãi đã xảy ra tại
thành phố nhỏ Trier ở Ðức. Có mặt để khánh thành một pho tượng đồng khổng lồ
Karl Marx mà đảng Cộng Sản Trung Cộng tặng kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông là
Chủ Tịch Ủy Hội Châu Âu Jean Claude Juncker. Ðiều mỉa mai là ông Juncker, một
nhà chính trị “bourgeois” bảo thủ nếu có sống dưới một chế độ Marxist thì số phận
may mắn nhất mà ông có thể hy vọng là một thời gian dài trong trại tập trung.
Khi vào ngày 5 Tháng Năm, năm 1818, Heinrich và Henriette Marx
cho cậu bé Karl ra chào đời, chắc họ không thể nào tưởng tượng được các niềm hy
vọng không tưởng cũng như những khủng khiếp đẫm máu mà nay đã trở thành dính liền
với cái tên Karl Marx.
Hầu hết các chế độ dựa trên các tư tưởng của Marx nay đã rơi vào
sọt rác của lịch sử. Vào lúc này những chế độ tự nhận mình là Marxist như Trung
Cộng hay Việt Nam lại chính là những chế độ thực hiện một hình thức tư bản chủ
nghĩa tàn bạo nhất. Nhưng cái tên Karl Marx vẫn còn là đồng nghĩa với cách mạng
tàn bạo, lý tưởng không tưởng và một chế độ độc tài toàn trị.
Ðối với những người chỉ trích ông, Marx là một kẻ cuồng tín mà
những tư tưởng đã kích động tạo ra một số chế độ tàn bạo nhất trong lịch sử từ
những trại cải tạo của Stalin, Mao, Hồ cho đến các cánh đồng chết của Pol Pot ở
Cambodia.
Mặc dầu vậy nhưng tư tưởng của ông vẫn còn hấp dẫn rất nhiều người.
Và hai cuốn sách chính của ông, “Bản tuyên ngôn Cộng Sản” và “Das Kapital” vẫn
còn được đọc tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vì sao thế giới lại bị hấp
dẫn bởi những tư tưởng của một con người mà đã tạo ra bao nhiêu đau khổ cho
nhân loại như vậy?
Ðó là vì trên tất cả các nhà kinh tế và triết gia hiện đại, Marx
vẫn là một trong số nhỏ những nhà trí thức mà có thể tự hào là đã thay đổi cung
cách mà chúng ta nhìn thế giới. Và mặc dầu những tư tưởng của ông – tầm quan trọng
của đấu tranh giai cấp, nhu cầu cấp bách phải làm cách mạng, ước mơ một xã hội
xã hội chủ nghĩa trong đó mọi người đều bình đẳng – là những điều gây tranh cãi
khổng lồ, nhưng chúng ta không thể nào tránh được chúng. Quả thật, trên một
phương diện nào đó, chúng ta đều là những người Marxist.
Marx không phải là một nhà khoa học như ông vẫn ước mong. Nhưng
ông là một nhà tư tưởng lớn: ông đưa ra một lý thuyết về xã hội bị thúc đẩy bởi
những lực kinh tế – không chỉ bởi riêng những phương tiện sản xuất mà bởi quan
hệ giữa chủ và công nhân – mà qua đó thúc đẩy xã hội phải bước qua một số giai
đoạn phát triển. Ông cũng là một cây bút xuất sắc. Ai mà có thể quên được nhận
xét của ông rằng lịch sử bao giờ cũng lập lại “lần đầu là một bi kịch, lần thứ
hai là một trò hề.”
Các tư tưởng của ông có tính cách tôn giáo hơn là khoa học – ta
có thể gọi chúng là tôn giáo soạn lại cho một thời đại thế quyền. Ông là một
nhà tiên tri hậu kỳ tả lại tiến trình sa ngã và cứu rỗi con người trong Thánh
Kinh dưới một hình thức mới. Sự sa ngã được biểu tượng bằng chủ nghĩa tư bản và
nhân loại được cứu rỗi bởi giai cấp vô sản nổi lên chống lại những kẻ bóc lột
và thành lập một thiên đường Cộng Sản nơi hạ giới.
Trong những năm về sau những đệ tử của ông tìm cách mang những ý
tưởng này vào hiện thực. Trên nhiều phương diện, thế kỷ thứ 20 là thế kỷ của Chủ
Thuyết Marx trong hành động. Từ cuộc cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cho đến
khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ, hết chế độ này đến chế độ khác tìm cách thực hiện
những tư tưởng cách mạng của ông. Nhưng thay vì thiên đường nơi hạ giới họ chỉ
làm ra những địa ngục. Tại riêng Liên Xô, đệ tử ông, Stalin, giết chết ít nhất
là 12 triệu người. Tại Trung Cộng, Mao còn giết chết nhiều hơn nữa, nhiều
chuyên gia cho rằng qua những đợt thanh trừng, cải tạo và Cách Mạng Văn Hóa của
các thập niên 50 và 60 khoảng 45 triệu người Trung Quốc đã thiệt mạng.
Tại Việt Nam các cuộc đấu tố cải cách ruộng đất cũng đã giết chết
ít nhất là khoảng trên một triệu người.
Ðiển hình rùng rợn nhất là Cambodia giữa năm 1975 và 1979 trong
đó Khmer Ðỏ của Pol Pot tìm cách thành lập một thiên đường Cộng Sản chỉ trong một
sáng một chiều. Chúng bắt toàn bộ dân chúng các thành phố của Cambodia về nhà
quê. Giết tất cả mọi thầy giáo, thương gia và các thành viên của giai cấp trung
lưu và không tha cả những người đeo kính cận. Trong việc theo đuổi thiên đường
của Marx, những người Khmer Ðỏ đã giết đến một phần tư dân số của Cambodia chỉ
trong vòng bốn năm. Chưa bao giờ ta có thể thấy một bằng chứng lạnh người hơn về
những gì xảy ra khi các tư tưởng không tưởng trở thành những hiện thực đẫm máu.
Người ta có thể biện luận rằng đó không phải là lỗi ở Marx mà là
vì các đệ tử của ông hiểu lầm ông. Quả thật với tư cách là một con người luôn
luôn bất đồng ý kiến và không ngại ngùng nói lên cái gì mình nghĩ, nếu Marx có
sống trong các chế độ tự nhận là theo tư tưởng của ông có lẽ ông đã kết thúc cuộc
sống trong một nấm mồ nông với một viên đạn vào đầu.
Thế nhưng tối hậu Marx cũng phải chịu trách nhiệm về hành vi của
các tông đồ mình. Tuy rằng họ có thể khinh thị các người khác và tham nhũng,
nhưng những người lãnh đạo các quốc gia Cộng Sản không bao giờ hoài nghi rằng họ
không phải là những người Marxist chân chính. Mao tin tưởng rằng các tư tưởng của
Marx phản ảnh “cái gì tốt, đẹp và thiện lương nhất.” Thí dụ điển hình nhất là
Stalin. Như sử gia Mỹ Stephen Kotkin đã chỉ ra nhà độc tài Xô Viết này không phải
là một con quái vật. Ông chỉ trở thành một con quái vật vì ông là một người
Marxist. Hồi nhỏ Stalin đã đi tu vì muốn trở thành một giáo sĩ. Stalin không giết
chết hàng triệu người bởi vì ông thích giết. Ông làm vậy chỉ vì ông tin là lý
thuyết của Marx đòi hỏi phải làm vậy. Ông nghĩ rằng cái chết của họ là một cái
giá đáng phải trả cho việc xây dựng thiên đường Cộng Sản. Và khi làm vậy ông chỉ
thực hiện theo đúng những gì Marx viết. Năm 1848 sau cuộc cách mạng không thành
tại Ðức, Marx viết: “Chỉ có một cách mà những giẫy chết khủng bố của xã hội cũ và
tiếng khóc chào đời đẫm máu của một xã hội mới có thể làm ngắn đi, đơn giản hóa
và tập trung là dùng khủng bố cách mạng.”
Như vậy vì sao bất chấp những thất bại của các chế độ dựa trên
chủ nghĩa Marx và tính tàn bạo bẩm sinh nằm trong chủ nghĩa này, các tư tưởng của
Marx vẫn còn hấp dẫn người ta vào thập niên thứ hai của thế kỷ 21 này?
Lý do chính làm cho người ta còn tiếp tục quan tâm đến Marx là
vì những ý tưởng của ông nay đã trở lại có ý nghĩa đối với xã hội.
Hệ thống tư bản theo Marx tự bản chất của nó là một hệ thống toàn
cầu. Và điều đó cũng đúng với hiện nay như là dưới thời Victoria mà Marx sống.
Hai phát triển đáng chú ý nhất của thời đại sau Thế Chiến Thứ Hai là việc tháo
gỡ dần các rào cản ngăn chặn việc di chuyển tự do của các yếu tố sản xuất –
hàng hóa, tư bản và ở một mức nào đó, lao động.
Trong tiến trình bành trướng này, theo Marx, chế độ tư bản tạo
ra một đạo quân lao động nghèo đói sống nhờ từ công việc này đến công việc
khác. Thế nhưng trong giai đoạn hậu chiến điều đó trông có vẻ như là một sai lầm
vớ vẩn. Thay vì “không có gì để mất ngoài xiềng xích của họ” dân chúng lao động
của thế giới, ít nhất tại các nước giầu có đã có công việc an toàn, nhà cửa tại
vùng ngoại ô và một tải sản đáng kể.
Nhưng cái sự đồng thuận vốn đã chuyển quyền lực từ tư bản sang
lao động và tạo ra một bước tiến lớn trong mức sống của xã hội đang phai mờ.
Toàn cầu hóa và sự nổi lên của một nền kinh tế gọi là kinh tế “gig” đã dẫn đến
một hệ thống tư bản trông giống như hệ thống tư bản mà Marx mô tả, trong đó người
công nhân sống từ công việc này sang công việc khác không có gì bảo đảm cho
tương lai. Nền kinh tế “gig” này đã khiến cho tại Anh giá nhà cao đến mức đa số
thanh niên khó có hy vọng gì mua được căn nhà của mình cho đến khi ít nhất là
45 tuổi. Còn tại Mỹ hầu hết các công nhân Mỹ cho biết họ chỉ có vài trăm đô la
trong trương mục của mình. Giai cấp vô sản của Marx nay đang được tái tạo lại tại
các nước trên thế giới.
Sự chuyển ngược quyền lực từ lao động sang tư bản cuối cùng cũng
đã tạo ra một phản ứng tại các xã hội nhưng lần này là dân túy từ phía hữu.
Thành ra không có gì lạ khi mà cuốn sách kinh tế thành công nhất của mấy năm gần
đây là cuốn “Capital in the Twenty-First Century” của Thomas Piketty mà ngay
chính cái tên cũng gợi lại cuốn “tác phẩm tuyệt tác – magnum opus” của Marx và
những quan tâm của ông về bất công xã hội.
Trên tấm bia của Marx tại nghĩa trang Highgate phía Bắc Luân Ðôn
có khắc mấy hàng chữ lấy từ tác phẩm của ông: “Các triết gia chỉ giải thích thế
giới bằng cách này hay cách khác. Vấn đề là phải thay đổi nó.”
Trong quá khứ nhiều thế hệ thanh niên đã nghe theo tiếng gọi đó
và nổi lên. Và trong cái tự phụ là đã nắm được chân lý tuyệt đối, họ đã vứt bỏ
không những lịch sử và truyền thống mà còn cả hàng trăm triệu sinh mạng. Nhân
danh tiến bộ và tất yếu lịch sử họ đã giết không biết bao nhiêu đàn ông, đàn bà
và trẻ em như những sinh vật trong lò sát sinh.
Lịch sử nay đã tái diễn lại như Marx nhận xét. Hy vọng rằng cũng
giống như nhận xét của ông nếu lần đầu là một bi kịch thì lần sau sẽ chỉ là một
trò hề.
Lê Mạnh Hùng
__._,_.___
From: giao tran
From: Chau Nguyen
Subject: CHỢ TRỜI SÀI GÒN SAU 1975
Subject: CHỢ TRỜI SÀI GÒN SAU 1975
Hai trụ đèn, không người lái, hai cửa sổ… Xem thử đi các đồng chí…
Cái đồng hồ này đáng giá cả một gia tài, nhưng bây giờ chỉ bán với giá ủng hộ…
– Chụp ảnh lấy liền chỉ mất 30 giây bằng máy Polaroid tối tân của Mỹ… Chụp đầy đủ cả bộ Đạp-Đổng-Đài để làm kỷ niệm… Chỉ còn một ít giấy ảnh, chụp ngay kẻo hết… Giá chỉ một ngàn đồng Ngụy một tấm…
Vài chú bộ đội tần ngần dừng chân đứng lại, một chú thắc mắc:
– Chụp 30 giây “nà thế lào” ?
– Chỉ sau 30 giây là đồng chí có một tấm ảnh bên cạnh xe đạp, đồng hồ đeo trên tay và radio đeo bên nách… Chụp đi đồng chí rồi gửi về Bắc làm kỷ niệm, chỉ mất có 1 đồng tiền mới, không có tiền mới thì trả tiền Ngụy cũng được !
– Chụp ảnh lấy liền chỉ mất 30 giây bằng máy Polaroid tối tân của Mỹ… Chụp đầy đủ cả bộ Đạp-Đổng-Đài để làm kỷ niệm… Chỉ còn một ít giấy ảnh, chụp ngay kẻo hết… Giá chỉ một ngàn đồng Ngụy một tấm…
Vài chú bộ đội tần ngần dừng chân đứng lại, một chú thắc mắc:
– Chụp 30 giây “nà thế lào” ?
– Chỉ sau 30 giây là đồng chí có một tấm ảnh bên cạnh xe đạp, đồng hồ đeo trên tay và radio đeo bên nách… Chụp đi đồng chí rồi gửi về Bắc làm kỷ niệm, chỉ mất có 1 đồng tiền mới, không có tiền mới thì trả tiền Ngụy cũng được !
Họ bám lấy người đi lãnh đồ như ruồi, không tiền đóng thuế cho hải quan, họ tình nguyện đóng thuế giùm, miễn là bán lại đồ cho họ.
Tôi đã chứng kiến nhiều cảnh cười ra nước mắt ở chỗ lãnh đồ gửi từ Mỹ về. Trong thùng đồ gửi về có một cây thuốc lá Pall Mall. Cây thuốc thơm tho đã nằm trên bàn kiểm hàng, thủ tục thuế má cũng đã đóng đủ cả chỉ còn việc người lãnh đồ chờ nhận. Tuy nhiên, nhân viên Hải quan (quan thuế) cho biết rằng thân nhân bên Mỹ đã gửi đồ một cách… phạm pháp. Người lãnh đồ thắc mắc, hồi hộp hỏi :
– Thưa… trong những gói thuốc này có… héroin hay sao ?
– Không, nhưng nhà nước xử nhẹ thôi, sẽ mua lại với giá chính thức, và cho lại anh một gói hút lấy thảo gọi là tình nghĩa với bà con.
Người
lãnh đồ sống trong tâm trạng của kẻ đi xin và được cho những gì… nhà nước không
cấm. Thuốc Pall Mall vẫn bầy bán trên lề đường Đồng Khởi, hồi xưa gọi là Tự Do.
Người ta mới hiểu ra, thuốc lá tịch thu ở chỗ lãnh đồ có chân chạy ra đường
Đồng Khởi.
Hàng từ ngoại quốc gửi về, nằm trong kho, người nhận quà được giấy báo, đôi khi hỡi ơi, chỉ còn thùng bị rút ruột hoặc bị đánh tráo. Vải từ bên Mỹ gửi về cho thân nhân ở quê nhà toàn dệt ở Việt Nam, nhà máy dệt Nam Định chẳng hạn. Gặp những chuyện đó chỉ có nước cắn răng chịu trận. Thân phận con kiến sao kiện được củ khoai.
Chuyện đó xảy ra hàng ngày nên không còn là chuyện la. Rồi giai cấp mới làm kinh doanh qua việc nuôi chó bẹc giê kiếm lời. Một giai cấp nhà giầu mới ra đời, người ta chăm sóc chó, cho chó ăn cả ký lô chả quế, ăn phở tái nạm gầu.
Lời đồn đại về lối sống của giai cấp mới này nhiều vô số kể, nhưng tôi không thể tin hết nếu chưa kiểm chứng. Trong hồi ức này những điều tôi viết ra đều đã được kiểm chứng và đúng là sự thật. Tôi không “bắt” ai phải tin hay nghĩ gì khác.
Cái cột đèn trong thành phố nó bị trồng cứng xuống lề đường nên đành đứng nguyên một chỗ, còn đồ Mỹ có chân, nó chạy ra chợ trời ! Nồi cơm điện, bàn ủi, hay đổng-đài nó có thể chạy ra đến chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, Tôn Thất Đạm. Nơi đây người ta bán chúng với bất cứ giá nào, dân chợ trời mua tùy theo túi tiền có sẵn và người mua về bao giờ cũng vui vì có được món hàng mà mình ao ước !
Chợ trời thuốc tây lớn nhất Sài Gòn trải dài suốt một con đường bên hông chợ Tân Định. Người ta có thể tìm mua đủ các loại tân dược tại đây, từ những viên thuốc cảm, sổ mũi, nhức đầu cho đến thuốc ‘đặc trị’ huyết áp, tiểu đường, thấp khớp – cái thì còn ‘đát’ nhưng có cái hết ‘đát’ từ mấy năm về trước. Nguồn hàng có xuất xứ đa dạng : thuốc từ các viện bào chế trước 1975, thuốc từ các nước ‘xã hội chủ nghĩa anh em’ và sau này còn có cả thuốc từ các nước tư bản do thân nhân từ nước ngoài gửi về.
Nguồn thuốc gửi về có đến 90% tìm đường ra chợ trời vì người nhận thuốc không phải để uống mà để bán đi lấy tiền lo cơm áo hàng ngày
Hàng từ ngoại quốc gửi về, nằm trong kho, người nhận quà được giấy báo, đôi khi hỡi ơi, chỉ còn thùng bị rút ruột hoặc bị đánh tráo. Vải từ bên Mỹ gửi về cho thân nhân ở quê nhà toàn dệt ở Việt Nam, nhà máy dệt Nam Định chẳng hạn. Gặp những chuyện đó chỉ có nước cắn răng chịu trận. Thân phận con kiến sao kiện được củ khoai.
Chuyện đó xảy ra hàng ngày nên không còn là chuyện la. Rồi giai cấp mới làm kinh doanh qua việc nuôi chó bẹc giê kiếm lời. Một giai cấp nhà giầu mới ra đời, người ta chăm sóc chó, cho chó ăn cả ký lô chả quế, ăn phở tái nạm gầu.
Lời đồn đại về lối sống của giai cấp mới này nhiều vô số kể, nhưng tôi không thể tin hết nếu chưa kiểm chứng. Trong hồi ức này những điều tôi viết ra đều đã được kiểm chứng và đúng là sự thật. Tôi không “bắt” ai phải tin hay nghĩ gì khác.
Cái cột đèn trong thành phố nó bị trồng cứng xuống lề đường nên đành đứng nguyên một chỗ, còn đồ Mỹ có chân, nó chạy ra chợ trời ! Nồi cơm điện, bàn ủi, hay đổng-đài nó có thể chạy ra đến chợ trời Huỳnh Thúc Kháng, Tôn Thất Đạm. Nơi đây người ta bán chúng với bất cứ giá nào, dân chợ trời mua tùy theo túi tiền có sẵn và người mua về bao giờ cũng vui vì có được món hàng mà mình ao ước !
Chợ trời thuốc tây lớn nhất Sài Gòn trải dài suốt một con đường bên hông chợ Tân Định. Người ta có thể tìm mua đủ các loại tân dược tại đây, từ những viên thuốc cảm, sổ mũi, nhức đầu cho đến thuốc ‘đặc trị’ huyết áp, tiểu đường, thấp khớp – cái thì còn ‘đát’ nhưng có cái hết ‘đát’ từ mấy năm về trước. Nguồn hàng có xuất xứ đa dạng : thuốc từ các viện bào chế trước 1975, thuốc từ các nước ‘xã hội chủ nghĩa anh em’ và sau này còn có cả thuốc từ các nước tư bản do thân nhân từ nước ngoài gửi về.
Nguồn thuốc gửi về có đến 90% tìm đường ra chợ trời vì người nhận thuốc không phải để uống mà để bán đi lấy tiền lo cơm áo hàng ngày
.
Người ta quan niệm, chống đói quan trọng hơn chống bệnh tật gấp nghìn lần. Thân nhân ở nước ngoài được báo là cứ gửi thuốc về, mặt hàng này có giá rất cao nếu so với quần áo, vải vóc, mỹ phẩn, kẹo bánh. Hơn nữa, trọng lượng lại rất nhẹ cân nếu so với các ‘hàng viện trợ’ khác, đỡ tốn cước phí đối với người gửi.
Từ Mỹ, từ Pháp cũng xuất hiện những công ty của người Việt chuyên gửi thuốc tây về Việt Nam với danh sách các loại thuốc ‘hot’ nhất, có nghĩa là bán được nhiều tiền nhất trên thị trường chợ trời. Tại Sài Gòn có cả một hệ thống thu mua mặt hàng thuốc tây, họ là dân chợ trời nhưng đến tận nhà. Hệ thống chân rết này bắt đầu từ những tay ‘cò’, có mặt tại khu lãnh hàng trên phi trường Tân Sơn Nhất hay bưu điện, thấy ai lãnh thuốc là xin địa chỉ đến tận nhà để mua, vừa kín đáo lại vừa an toàn, không sợ công an ‘vồ’.
Dân chợ trời thuốc tây cũng xuất thân đủ mọi ngành nghề: từ ông dược sĩ chính hiệu bị mất sở làm đến anh “sỹ quan ngụy” vừa tốt nghiệp cải tạo, từ tên chuyên nghiệp mánh mung đầu đường xó chợ đến kẻ trong túi không có tiền uống cà phê cũng ra chợ trời buôn nước bọt. Họ đứng ra làm trung gian, dẫn mối.
Bạn cải tạo của tôi ra chợ trời kiếm ăn cũng không ít. ‘Tổng hành dinh’ của đám chợ trời chúng tôi là nhà Nam ‘đầu bạc’ ở đường Hai Bà Trưng, ngay chân Cầu Kiệu, nên rất gần với chợ trời thuốc tây trên đường Nguyễn Hữu Cầu, bên hông chợ Tân Định.
Nam vốn là bác sĩ quân y, khi đi học tập về sống chung với ca sĩ Phương Hồng Quế và mở phòng mạch trên đường Triệu Quang Phục trong quận 5, Chợ Lớn. Căn nhà mặt tiền đường Hai Bà Trưng vốn là của gia đình Quế nên được đám bạn chọn là nơi ra vào từ chợ trời.
Thuốc tây thu gom ở chợ Nguyễn Hữu Cầu được gửi tạm tại đây trước khi sang tay, mua đi bán lại. Mỗi khi bác sĩ Nam cần thuốc cho phòng mạch cũng đều nhờ anh em chợ trời săn lùng, anh em không ra chợ trời Nam cũng sẵn sàng mua ủng hộ mỗi khi có thuốc tây từ nước ngoài gửi về làm quà. Phần tôi thỉnh thoảng cũng có chút quà nên nhờ Nam mua giúp.
Tôi hiểu, những lọ vitamin nếu đem ra chợ trời bán sẽ bị chê ỏng chê eo nên hễ có là tôi nhờ Nam mua… ủng hộ!
Nhóm chợ trời thuốc tây chúng tôi gồm đủ thành phần đã tốt nghiệp ‘đại học cải tạo’: Huệ (sĩ quan Hải quân… mắc cạn), Cường ‘điếc’ (pháo binh Thủy quân Lục chiến nên tai bị nghễnh ngãng vì tiếng súng), chú Định (dân Quốc gia Hành chính, đã từng là phó quận), Quyền (Giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội bị… ‘mất dậy’)…
Riêng tôi được miễn ‘công tác ra chợ trời thuốc tây kiếm sống’, thay vào đó là chân ‘gia sư’ kèm Anh Văn cho Phương Hồng Quế, Phương Dung, Thu Hiền và một số bạn bè của Quế cũng như con cái của các bạn cải tạo. Ông thầy ngày một đông học trò nên cuộc sống cũng có phần dễ thở trong suốt thời điêu linh.
Tan chợ, anh em thường tụ họp tại Hai Bà Trưng, thỉnh thoảng vào cuối tuần lại chung tiền tổ chức ‘giải lao’ sau những ngày ‘hành sự’ tại chợ Nguyễn Hữu Cầu. Tết Trung Thu, Quế lại còn tổ chức cho con cái ‘cái bang’ về Hai Bà Trưng đốt lồng đèn, ăn bánh Trung thu…
Giờ thì anh em cải tạo, người nào cũng ‘sáu, bẩy bó’, lưu lạc bốn phương, kẻ ở lại trong nước, người đã ra nước ngoài. Ngồi viết lại chuyện chợ trời để nhớ lại một thời điêu linh.
(theo Hướng Dương txd)
Nghề nghiệp buổi giao thời
Nghề nghiệp buổi giao thời
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment