Bức tranh „rồng rắn“ về chế độ toàn trị của cố Trung tướng Trần Độ 15 năm trước nay
càng chính xác và rõ nét!
TS.ÂU DƯƠNG THỆ
Vào năm Canh Thìn (2000) và Tân Tị (2001) cố
Trung tướng Trần Độ đã viết Nhật kí Rồng Rắn. Khi ông hoàn thành tập hồi kí này
cũng là lúc Đại hội 9 của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) họp xong (cuối tháng
4. 2001). Đây là tác phẩm cuối cùng trước khi ông qua đời (8.2002). Khi ông
mang bản thảo tập Nhật kí Rồng Rắn đi chụp lại thì bị công an đã phục sẵn và
tịch thu bản thảo cùng bản sao.
Cố trung tướng Trần Độ đã từng là Phó Bí thư
Trung ương Cục miền Nam của ĐCSVN. Dứơi thời Nguyễn Văn Linh làm Tổng bí thư,
ông là Trưởng ban Văn hoá văn nghệ trung ương (nay là Ban Tuyên giáo trung
ương) tán dương „cởi trói“ cho trí thức và văn nghệ sĩ và sau đó là Phó Chủ
tịch Quốc hội. Một người văn võ, ý thức chính trị và nhân cách kiêm toàn.
Trong hơn thập niên cuối cùng Trung tướng Trần
Độ theo mệnh lệnh của trí tuệ và lương tâm đã rất can đảm lên tiếng công khai
yêu cầu nhóm lãnh đạo CSVN phải đổi mới thực sự và toàn diện cả trong chính trị
và kịch liệt kết án tệ trạng tham nhũng, bất tài và bạo ngược của những người
có quyền lực trong chế độ. Ông đã bị khai trừ ra khỏi ĐCSVN và bị các đồng chí
cũ theo dõi rất nghiêm ngặt.
Trong „Nhật kí Rồng Rắn“ Trung tướng Trần Độ
không chỉ dẫn chứng những sai lầm, các tội ác mà các tầng lớp lãnh đạo từ trước
tới nay ngày càng lún sâu; ông còn nêu ra các nguyên nhân và những thảm họa cho
nhân dân và đất nước. Những điều ông nêu ra 15 năm trước nay ở mức độ còn tồi
tệ hơn. Mọi người đều có thể kiểm chứng được: Từ tranh giành quyền lực ở trung
ương, quan tham nhung nhúc như rươi, đội ngũ „lưu manh tư tưởng“, công an lộng
quyền, bầu cử quốc hội trá hình, dân oan khiếu kiện…
Ông so sánh sự tàn bạo của chế độ toàn trị ở VN
hiện nay với nhiều bạo chúa và độc tài quân phiệt:
„Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là
tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thuỷ Hoàng và các vua quan tàn bạo của
Trung quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài.
Nó tàn phá cả một dân tộc, huỷ hoại tinh anh của
nhiều thế hệ.”
Đã từng bao năm nằm chung chăn nên Tướng Trần Độ
hiểu rất rõ tư cách và lòng dạ từ người cầm đầu cho tới các cấp dưới chỉ biết
lừa đảo:
„Lãnh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối lừa,
làm ăn giả dối, giáo dục dối lừa, bằng cấp giả dối, đến gia đình cũng lừa dối,
lễ hội lừa dối, tung hô lừa dối, hứa hẹn lừa dối. Ôi , cay đắng thay!“
Từ đấy, ngay 15 năm trước Trung tướng Trần Độ đã
rút ra được tổng kết về 60 năm thành quả „cách mạng“:
„Thế là ta đập tan một cái xấu xa và lại phải
chấp nhận một cái xấu xa mới giống như hoặc tệ hại hơn tất cả những xấu xa mà ta
từng chửi rủa, từng căm thù…“
Quan trọng nữa là Trung tướng Trần Độ còn đề
nghị các giải pháp, ngõ ra thoát khỏi chế độ toàn trị để dân tộc ta đứng thẳng
đi lên. Ông thiết tha kêu gọi tất cả „mỗi người Cộng sản có lương tâm phải biết
xấu hổ“, phải tham gia đấu tranh cùng với nhân dân thay đổi chế độ độc tài toàn
trị và xây dựng một chế độ mới dựa trên 4 nền tảng: „1. Thực hiện một xã hội
công dân. 2. Một nhà nước pháp quyền. 3. Một nền kinh tế thị trường. 4.
Một nền dân chủ thật sự.“
Nhân dịp 41 năm „Giải phóng“ và 30 năm gọi là „Đổi
mới“ đọc lại những gì Trung tướng Trần Độ đã cảnh báo 15 năm trước lại càng
thấy chính xác và những lời ông kêu gọi toàn dân lại càng thấm thía mãnh liệt
hơn!
Phần dưới đây trích trong tập „Nhật kí Rồng Rắn“
của cố Trung tướng Trần Độ, từ trong Tạp chí Dân chủ & Phát triển (báo in)
số 29, tháng 12.2004. Các phần trong […] là của Tòa soạn DC&PT.
*
* *
[Phần mở đầu Trung tướng Trần Độ đã đặt câu hỏi:
„Tại sao chiếm được miền Nam 1975, một nửa đất nứơc trù phú như
vậy mà chỉ vài năm sau đã đưa cả nứơc vào „nghèo đói, ngắc ngoải“?]
“…Hãy nhìn lại xem: từ năm 1975 đến 1985, mười
năm xây dựng xã hội chủ nghĩa trong cả nước và nước có tên là: “Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa” thì đất nước ra thế nào? Có phải suýt chết đói, suýt rơi xuống vực
thẳm rồi không? Thắng lợi 1975, ta đã thu lại một nửa nước no đủ và đầy hàng
hoá, thế mà ta đã phát huy thắng lợi đó ra sao, mà đến những năm đầu của thập
kỷ 80, cả nước đói nghèo, ngắc ngoải...
Nếu chỉ lấy yêu cầu phát triển đất nước là mục
tiêu quan trọng nhất để xem xét, thì thử hỏi:
Có nhất thiết chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin, chỉ
có chủ nghĩa xã hội, mới làm cho đất nước phát triển hay không? Nếu chỉ cần nêu
cao vai trò của Đảng, thì có nghĩa là đất nước phát triển hay không phát triển
là không quan trọng.
Vậy hãy cứ xem quanh ta: Đài loan, Đại Hàn,
Singapore và thêm nữa, Thái lan và Malaysia, mấy nước này có do chủ nghĩa Mác-
Lênin hướng dẫn không? Những nước ấy có cần có một Đảng cộng sản lãnh đạo tuyệt
đối theo chủ nghĩa xã hội không? Thế mà cả 5 nước ấy, khi bắt đầu còn nghèo khổ,
vậy mà chỉ sau khoảng 20-30 năm họ đã trở thành những nước phát triển rõ ràng,
nhân dân đa số có đời sống khá phong lưu.
Họ không có một Đảng cộng sản “tài tình”, “sáng
suốt”, mà chỉ có những chính khách, có được chính sách kinh tế xã hội thông
minh và có hiệu quả. Còn Việt Nam, kể từ khi toàn thắng trong cuộc chiến tranh
đến nay đã hơn 25 năm và sắp sửa có hoà bình 30 năm, dài bằng thời gian chiến
tranh rồi, mà vẫn chưa thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu. Chậm hay nhanh không quan
trọng, cứ phải là xã hội chủ nghĩa đã…
- Có người nói cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga
thành công và Liên xô ra đời là sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ 20. Vậy thì
sự sụp đổ của cái “quan trọng” ấy lại càng “siêu quan trọng”.
- Ở Việt Nam, từ 1975 đến 1985 ta chủ trương xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước. Điều đó đã làm đất nước và nhân dân khốn
khổ. May mà năm 1986, Đảng cộng sản phải nghe theo dân và phải đổi mới, nhưng
sự đổi mới ấy lại cứ nửa vời, chập chờn, làm cho sự phát triển đất nước cũng cứ
chập chờn, cứ nhùng nhằng, do đó đã qua đi 25 năm mà tương lai chưa hứa hẹn gì
nhiều. Trong khi đó sự tụt hậu cứ càng ngày càng tụt xa, ta không sao theo kịp
các nước không xã hội chủ nghĩa. Như vậy “xã hội chủ nghĩa” chỉ là một lý
thuyết của một học thuyết chưa được chứng thực (chỉ mới có sự chứng thực của sự
thất bại và đổ vỡ sau 70 năm tưởng rằng đã thành công).
Như vậy nó không thể là con đường duy nhất để
phát triển đất nước…
[Nhận diện về các tệ trạng của chế độ]
Nhưng còn xã hội ngày nay đã tốt đẹp chưa? Đã tự
do, dân chủ chưa? thì không ai thấy được. Nhưng ai cũng thấy rằng:
1. Xã hội hiện nay có một bộ máy quản lý to lớn
kềnh càng quá, nhất là ở xã phường và huyện tỉnh. Bộ máy lại có nhiều Quan quá.
Có một thời chữ Quan mất đi rồi, thay vào đó là chữ “Cán bộ”, “Đồng chí”. Nhưng
ngày nay chữ “Đồng chí” chỉ còn trên giấy, còn thường ngày dân vẫn nói “các
Quan” và “Quan càng to, càng nhiều bổng lộc”. Ngôn ngữ ấy trở lại như ngày xưa,
trong xã hội rất nhiều người cũng cố gắng “phấn đấu” để được làm Quan. Vợ kiêu
hãnh vì có chồng là Quan, con hãnh diện vì có bố, mẹ là Quan. Điểm này, xã hội
ngày nay giống trước và trắng trợn, tệ hại hơn trước.
2. Càng Quan to thì lễ lạt, biếu xén càng to và
bổng lộc càng nhiều.
3. Nhiều Quan to có mức độ sống không kém gì các
quan ở những nước giàu có (nhà cửa, xe cộ, quần áo, ăn uống).
4. Trong bộ máy, có nhiều người khiến nhân dân
phải sợ, phải kiêng nể, có nhiều bộ máy to nhỏ đáng sợ. Dân phải sợ công an, sợ
cán bộ Đảng, vì cán bộ Đảng giống công an quá, cũng hay dò la, xem xét, hay doạ
nạt. Công an ngày càng nhiều và ngày càng có nhiều nét của một hình ảnh khủng
bố, là hình ảnh doạ trẻ con được “Ấy chết, chú Công an kia kìa!”.
5. Các cơ quan bảo vệ pháp luật cũng khá đông
đảo, nhưng không bênh vực được nhân dân chút nào. Nhân dân vẫn phải khiếu kiện
nhiều, khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người (tức là
biểu tình), vừa gửi đơn, vừa muốn trực tiếp đưa đơn, có rất nhiều trường hợp
oan trái và oan khuất từ đời cha, đời ông đến đời con, đời cháu.
Những điều đó, báo chí lẻ tẻ đều có nói đến,
nhưng còn rất ít. Phải nghe nhân dân nói với nhau ở hè phố, góc chợ và khắp nơi
mới thấy rõ được bức tranh xã hội thật.
Vậy một xã hội mà ta mơ ước, ta lý tưởng hoá,
lại tồn tại trong hiện thực như vậy, thì có thể coi là ta đã xây dựng được một
xã hội tốt đẹp hay chưa?...
Ta đã từng mơ ước, và từng lý tưởng hoá, ta đã
từng chỉ ra là xã hội tương lai sẽ không có thất nghiệp, không có cờ bạc, không
có gái đĩ, không trộm cắp vv... Nhưng xã hội ta ngày nay như thế nào? Vẫn có
đầy đủ các tệ nạn của một xã hội cũ mà ta đã từng nguyền rủa và đã từng đập
tan. Trước đây ta cho rằng chỉ có xã hội tư bản mới xấu xa như thế. Còn xã hội
xã hội chủ nghĩa thì một trăm phần trăm tốt đẹp, một trăm phần trăm ngược lại
với xã hội tư bản.
Thực ra, chủ nghĩa Mác rất nhân đạo, rất nhiều
lòng tốt, nó chỉ ra cho loài người một tương lai sáng lạn: sẽ không có tư hữu,
do đó không có bóc lột, thế là cuộc sống xã hội hoàn toàn công bằng và dân chủ.
Nhưng thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng nó không
thể đơn giản như vậy. Hình ảnh ấy chỉ là một cái bánh vẽ khổng lồ. Thực tiễn
cuộc sống khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều. Loài người cứ phải tìm kiếm và tìm
kiếm, tạo ra cho mình những kinh nghiệm và những giá trị tốt đẹp. Xã hội tư bản
có những cái xấu, nhưng trong xã hội đó, nhân dân cũng tạo ra những giá trị tốt
đẹp cho mình, miễn là nhân dân được tự do. Cái điều mà chủ nghĩa Mác, cộng sản
hay xã hội chủ nghĩa tưởng rằng có nhờ nó sẽ có một bộ máy nhà nước bảo đảm
được mọi mặt nhu cầu đời sống của mọi người, chỉ là một ảo tưởng hão huyền.
Thế mà Đảng lại cứ bắt mọi người phải tin theo
vào cái ảo tưởng hão huyền đó. Như thế là phạm vào một tội ác lớn với nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái
định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một
sự điên cuồng.
Nhân dân cần được tự mình làm chủ cuộc đời của
mình, nghĩa là phải được tự do sống, tự do làm ăn, rồi mọi việc của cuộc sống
sẽ được giải quyết dần, không cần một lý thuyết, một chủ nghĩa nào cả.
Nói đúng hơn là nhân dân cần đến tất cả các học
thuyết, các chủ nghĩa, rồi nhân dân sẽ chọn lọc, cân nhắc, so sánh chúng với
nhau để tìm ra cái nào có lợi cho đường đi của mình.
Đảng nào sáng suốt và tài tình là đảng tạo ra
được những tự do như vậy cho nhân dân. Chứ còn đảng nào mà cứ bắt nhân dân phải
nghe theo và sống theo các nghị quyết của mình thì đảng ấy chỉ là duy ý chí một
cách dốt nát và tàn bạo.
Đảng ấy quyết không thể tồn tại…
[Ông nêu một câu hỏi rất quan trọng khác:
„Cách mạng VN đã đem lại được cái gì cho nhân dân Việt Nam?“]
Tiếp tục câu hỏi lớn: cuộc cách mạng Việt Nam đã
đem lại được cái gì cho nhân dân Việt Nam?
Cứ xem xã hội Việt Nam hiện nay, cuộc sống Việt
Nam hiện nay, thì có thể thấy một nét lớn rất đau lòng là: Tất cả những gì xấu
xa, tàn bạo, mà cách mạng đã có lúc xoá bỏ và đập tan thì nay đang được khôi
phục lại hoàn toàn, mà khôi phục lại còn mạnh hơn, cao hơn, nhân danh cách
mạng.
Bộ máy quản lý xã hội thực hiện một nguyên tắc
chuyên chính tàn bạo hơn tất cả các thứ chuyên chính.
Đó là chuyên chính tư tưởng, sự chuyên chính tư
tưởng được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là những “lưu manh tư tưởng”. Chuyên
chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi
tiếng nói…Những điều luật quy vào các tội: có hại cho lợi ích cách mạng, không
lợi cho sự nghiệp cách mạng, nói xấu chế độ, nói xấu lãnh đạo vv… để đàn áp tàn
khốc mọi tiếng nói.
Nền chuyên chính tư tưởng này đang làm cho tất
cả trí thức không dám suy nghĩ gì, hoặc ít nhất cũng không muốn suy nghĩ gì, nói
năng gì. Thực ra, nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh
thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra
sức nô dịch toàn bộ tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở
thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ, giáo điều. Nó
làm cho nền giáo dục khô cứng, làm cho các hoạt động văn học nghệ thuật nghèo
nàn, mất hết cơ hội sáng tạo và mất hết hào hứng, nó làm cho các hoạt động khoa
học bị khô cứng và nô dịch.
Nó tạo ra và nó bắt buộc nhân dân phải có một
tâm lý lệ thuộc, lệ thuộc vào nhà nước, lệ thuộc vào Đảng, lệ thuộc vào cán bộ,
và một tâm lý phải tuân phục, kể cả người cao nhất cũng phải tuân phục một cái
gì bí và hiểm.
Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là
tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thuỷ Hoàng và các vua quan tàn bạo của
Trung quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài.
Nó tàn phá cả một dân tộc, huỷ hoại tinh anh của
nhiều thế hệ.
Xét đến cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm
nhân quyền. Vì không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống cuả con người mà nó
huỷ hoại cuộc sống rất nhiều người, đó là cuộc sống tinh thần, cuộc sống tư
tưởng của cả dân tộc.
Nó đang làm hại cả một nòi giống…
[Nguyên nhân:
Tầng lớp lãnh đạo bất tài, vô đức, tham lam và kiêu căng!]
Vì thế, đặc điểm bao trùm của chế độ chính trị
xã hội này là:
a) Nói một đàng, làm một nẻo.
Nói thì “dân chủ, vì dân” mà làm thì chuyên
chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò
hề “nói vậy mà không phải vậy”.
Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò, ở đâu cũng
thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp. Suốt ngày đêm, suốt năm tháng
cũng lúc nào cũng chỉ nghe thấy những lời nói dối, nói lừa.
Chế độ này bắt mọi người phải đóng trò, bắt tất
cả trẻ con phải đóng trò, bắt nhiều người già phải đóng trò.
Đặc điểm này đã góp phần quyết định vào việc tạo
ra và hình thành một xã hội dối lừa: Lãnh đạo dối lừa, Đảng dối lừa, cán bộ dối
lừa, làm ăn giả dối, giáo dục dối lừa, bằng cấp giả dối, đến gia đình cũng lừa
dối, lễ hội lừa dối, tung hô lừa dối, hứa hẹn lừa dối. Ôi , cay đắng thay!
b) Đặc điểm thứ hai là quá lợi dụng quá khứ thắng lợi.
Quả thật nhân dân ta có một lịch sử đấu tranh
hết sức quyết liệt và đã thắng lợi vẻ vang. Trong đó Đảng cộng sản có vai trò
quan trọng và Đảng cộng sản đã tự nói về điều đó một cách quá đầy đủ rồi. Thế
mà đến nay đã gần 30 năm hoặc đã gần 80 năm vẫn còn ngày đêm phất cờ đánh
trống, ngày đêm hò hét tự biểu dương, và cũng ngày đêm vơ vét các thành tựu
nhân dân làm ra dồn vào cái túi “thắng lợi vẻ vang” và cái túi “sáng suốt, tài
tình”. Lúc nào cũng bắt nhân dân phải tung hô, phải chào mừng, phải ca ngợi.
- Chào mùa xuân cũng phải mừng Đảng, mừng Xuân
- Kỷ niệm nông dân, phụ nữ, thanh niên cũng phải
biểu dương thành tích Đảng, Đảng là nguyên nhân thắng lợi.
- Nhân tổ chức lễ hội để tưởng nhớ tổ tiên và
vui chơi cũng phải tưởng nhớ công lao Đảng và chào mừng Đảng.
- Đám cưới, đám ma cũng phải tưởng nhớ và chào
mừng Đảng.
Một câu ca dao rất tuyệt vời của nhân dân nói
lên bản chất của tình hình và nói lên chân lý thời đại:
Mất mùa thì tại thiên tai,
Được mùa là bởi thiên tài Đảng ta!
Nhắc đi nhắc lại mãi “chân lý” này càng làm nó
sáng rõ. Thực ra, mỗi người cộng sản có lương tâm phải biết xấu hổ về cái “chân
lý” ấy.
Có người đã nói rằng: Đảng đã ăn cái “xái” (xái
thuốc phiện) của thắng lợi quá nhiều lần. Người ta ăn xái thuốc phiện thì ăn
đến xái ba, xái bốn là hết, còn xái thắng lợi thì Đảng ta ăn đến xái 100 rồi mà
còn chưa chán.
c) Đặc điểm thứ ba là bộ máy lãnh đạo và quản lý xã hội này (cả
Đảng và nhà nước) càng ngày càng đuối, càng bộc lộ trình độ kém cỏi của mình
trước “nhiệm vụ dân chủ” giàu mạnh của đất nước.
Tất cả những nhu cầu, những thiết yếu hàng ngày
của một người dân muốn nhờ vào bộ máy lãnh đạo và quản lý gỡ rối cho, giải
quyết cho thì đều gặp:
- Giải quyết sai làm cho đời sống dân khó thêm,
rắc rối thêm
- Giải quyết chồng chéo, không biết giải quyết
thế nào, cứ bộ phận nọ bắn sang bộ phận kia, kéo dài vô tận.
- Không giải quyết được.
- Đòi hỏi dân phải tốn kém nhiều mới chịu giải
quyết.
Vì thế mới nhiều khiếu kiện, nhiều oan khuất,
nhiều điểm nóng…
Cũng do đặc điểm độc tài, độc đoán, cho nên mỗi
người dân không được độc lập bộc lộ tài năng của mình (tuy rằng tài năng đó
không hiếm). Việc chọn lựa những người có trách nhiệm cứ theo lối phe phái,
theo lối ăn cánh, theo lối nịnh bợ, cơ hội, theo lối “bầu cử có lãnh đạo”,
(Đảng cử dân bầu) thì các tài năng cứ bị vùi dập, bị thui chột, và đó là tai
hoạ cho toàn dân tộc.
Trong thực tế, đây là một trong những tội ác lớn
nhất của Đảng đối với đất nước, dân tộc…
d) Đặc điểm thứ tư là đặc điểm lớn nhất, tai ác nhất, dã man nhất.
Đó là độc quyền tư tưởng, độc quyền ý thức hệ.
Đặc điểm này của chính quyền là trước mắt tạo ra
một xã hội tẻ nhạt, khô cứng, nó vùi dập khoa học và văn nghệ, ép buộc thiếu
nhi và thanh niên, làm cho không một giá trị tinh thần nào được xuất hiện và
phát triển, về lâu dài nó làm cùn mòn cả nhiều thế hệ và do đó cùn mòn cả một
dân tộc, một giống nòi. Nhưng những tai ác của đặc điểm này không duy trì được
lâu. Đã có nhiều người trong thế hệ thanh niên và trung niên được tiếp xúc với
nhiều thông tin thế giới bắt đầu nhận rõ tình hình và đang tìm cách rũ bỏ cái
ách này. Chính quyền chỉ có một tiền đồ là bị phản đối và sẽ tan rã. Ta đã tha
thiết mong mỏi biết bao nhiêu; chính quyền này đừng phản lại lịch sử nữa, hãy
thích ứng với thời đại và tự đổi mới. Được như thế thì dân tộc ta gặp may mắn.
Nhưng hình như những lực lượng bảo thủ, giáo điều, và cuồng tín còn quá nhiều
và nhiều tham vọng nên còn đang kìm hãm nhịp sống bình thường của toàn dân tộc.
e) Đặc điểm thứ năm là Đảng đã độc đoán và toàn trị, lại xử lý các
việc theo kiểu bí mật và nội bộ, rất sợ công khai, sợ dân biết.
Càng bí mật nội bộ thì càng tha hồ tuỳ tiện,
muốn duy trì độc đoán nên càng sợ hãi và cấm đoán công khai, không dám tranh
luận công khai, không dám thông tin công khai.
g) Đặc điểm thứ sáu là thích hình thức, phô trương.
Bệnh hình thức thì Hồ Chí Minh lên án từ lâu,
nhưng ngày nay, bệnh cứ ngày càng phát triển nặng, ngày càng phổ biến, trở nên
nhàm chán, kệch cỡm, đến nỗi dư luận xã hội và đại biểu Quốc hội phải lên
tiếng.
Suốt ngày, ta chỉ thấy kỷ niệm “chào mừng”, “lễ
hội”, “mít tinh long trọng”,… Những người lãnh đạo suốt ngày phải đi biểu diễn
“mở miệng nói”, không thấy có lúc nào họ có thì giờ để suy nghĩ và chuẩn bị
được ý tưởng để lãnh đạo…
Tóm lại, sự thật của mấy chục năm qua là:
Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xoá bỏ
được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói
nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất
công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế, của một chế độ
độc đảng và toàn trị, nhiều thói xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ cũ.
Thế là ta đập tan một cái xấu xa và lại phải
chấp nhận một cái xấu xa mới giống như hoặc tệ hại hơn tất cả những xấu xa mà
ta từng chửi rủa, từng căm thù…
[Trung tướng Trần Độ
đề nghị một lối ra cho dân tộc và đất nước]
Bây giờ phải làm gì?
Sự thật không có gì khó khăn, và không có gì đảo
lộn cả. Các vị lãnh đạo đã nói được nhiều điều tốt đẹp. Những điều tốt đẹp đó
cũng là nói theo dân mà thôi. Dân căm ghét tham nhũng thì lãnh đạo cũng phải hò
hét “kiên quyết chống tham nhũng”. Dân thấy tình hình đang bê bết, lãnh đạo
phải nói tự phê bình, và các văn kiện đều phải nói về sự yếu kém nhiều hơn. Dân
yêu cầu dân chủ và kêu ca tình trạng thiếu dân chủ thì lãnh đạo cũng phải thêm
chữ dân chủ vào khẩu hiệu chiến lược.
Nhưng nói thêm chữ thêm nghĩa vào chỗ này chỗ
khác thì tốt đấy, nhưng hầu như chưa có ý nghĩa gì. Vì ta vốn đã có một thói tệ
trầm trọng là nói một đàng, làm một nẻo. Cứ căn cứ vào chủ nghĩa thì ta có bao
nhiêu là tốt đẹp. Ví như để trả lời điều nhận xét là ta kém dân chủ, thì một
nhà lãnh đạo (hoặc một người phát ngôn thay mặt lãnh đạo) nói trên diễn đàn
rằng nước tôi có đầy đủ dân chủ, chứng cứ là các quyền dân chủ ghi đầy đủ ở
Hiến pháp và các bộ luật, có cả một văn bản pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ
sỏ. Và thế là các vị lãnh đạo đã “yên chí lớn” về nền dân chủ của nước nhà.
Trong khi đó, những người trí thức và người dân thường, từng ngày từng giờ cứ
phải tiếp sức với sự bưng bít thông tin, cứ phải đối phó với công an, thuế vụ,
và dân phòng, Vậy thì họ chỉ thấy những lời nói tốt đẹp kia là vô nghĩa.
Quả thật là đất nước ta, xã hội ta đang ở tình
trạng không yên. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, và bất cứ ai cũng có thể nghe
thấy những lời phàn nàn về tham nhũng, về đạo đức, về tệ nạn và về mất dân chủ.
Xét cho cùng thì cũng là do thiếu dân chủ.
Nhân dân (và nhất là giới lão thành và giới trí
thức) có rất nhiều ý kiến hay. Nhưng vì không có dân chủ, nên không thu hút
được những ý kiến hay, bổ ích, thiết thực đó. Vì vậy, phải giải quyết từ vấn đề
đường lối. Đại hội IX đã qua rồi và không giải quyết vấn đề đường lối. Vậy thì
Ban chấp hành Trung ương phải bắt tay vào chuẩn bị vấn đề đường lối (có thể cho
Đại hội sau).
Đường lối sắp tới, theo ý tôi phải là đường lối
dân chủ hoá
Dân chủ hoá không phải là một số công tác, một
số quyết định luật lệ. Dân chủ hoá phải là vấn đề đường lối, vấn đề chiến lược,
vấn đề chính trị xã hội.
Ta biết có những nhà trí thức quan trọng đã vẽ
ra một bức tranh xã hội tươi đẹp cho nước ta ngay trước mắt, không cần phải
định hướng, cũng không cần xã hội chủ nghĩa.
Bức tranh xã hội đó là: Một xã hội có 4 yếu tố
thiết yếu và quan trọng sau:
1. Thực hiện một xã hội công dân, tức là một xã
hội mà trong đó mỗi người dân thực sự làm chủ thân phận, cuộc sống của mình, có
một sự độc lập tương đối trong làm ăn và sinh sống. Nó khác hẳn hiện trạng xã
hội ta ngày nay, một xã hội mà trong đó mỗi người dân chỉ là một người tuân
phục. Xã hội ta bây giờ chỉ có thần dân, không có công dân.
2. Một nhà nước pháp quyền. Đó là một nhà nước
có kỷ cương tinh nhuệ, không phải là một nhà nước cồng kềnh và bất lực như hiện
nay. nhà nước đó phải thực sự là công bộc của nhân dân, phục vụ từng người dân,
chứ không phải là một nhà nước chỉ biết cai trị dân, sai bảo dân, và tìm cách
đục khoét của dân.
3. Một nền kinh tế thị trường. Đó là một nền
kinh tế hoàn chỉnh chứ không cần định hướng gì hết. Nền kinh tế đó có đủ các
yếu tố của thị trường và được vận hành theo quy luật vận động của nó. Nền kinh
tế này sẽ kích thích phát triển xã hội nhanh chóng tức là thúc đẩy mạnh mẽ sự
phát triển của sức sản xuất. Rồi mỗi khi có một bước phát triển khách quan của
nó thì lại có chính sách thích hợp cho nó phát triển, khắc phục mọi yếu tố kìm
hãm. Vì vậy càng không nên “định hướng”.
4. Là một nền dân chủ thật sự. Nền dân chủ này
bao gồm cả xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Nhưng một điều nữa là bảo
đảm tất cả mọi quyền công dân đã ghi trong Hiến pháp và các Công ước quốc tế.
Chủ yếu nhất là thực hiện ngay (thực hiện chứ không phải ban bố) quyền tự do
ngôn luận, tự do ứng cử, bầu cử, và quyền tự do lập hội… “
TS.ÂU DƯƠNG THỆ
Mục Thời sự Tạp chí Dân chủ & Phát triển điện tử:
Email:
dcvapt
__._,_.___
No comments:
Post a Comment