WILL NGUYỄN, Thanh Mai dịch
Một áp phích tuyên truyền tại Đà nẵng. Các áp phích tương tự cũng có thể thấy tại Thành phố Hồ chí Minh, hay là các thành phố khác. Ảnh của Dragfyre
Sài Gòn, năm 1965. Một áp phích tuyên truyền tại trung tâm thành phố, kêu gọi người dân tiến tới “thống nhất đất nước, hãy bảo vệ miền Nam và giải phóng miền Bắc!”
Ảnh: từ bộ sưu tập của Warren G. Reed
Được sự cho phép của tác giả, bài viết đã được đăng trên The Vietnamese và New Narratif ngày 30/4/2018.
Tôi luôn thích sự tồn tại của các bên “riêng biệt, nhưng bình đẳng”,
mượn cách nói kiểu chính trị hơi nguy hiểm (cụm từ “riêng biệt, nhưng bình đẳng”
liên quan đến thời kỳ segregation/phân biệt chủng tộc kéo dài đến 1964 tại Hoa
kỳ, vì thế việc sử dụng cụm từ này dễ bị liên hệ đến sắc thái kỳ thị -chú thích
của người dịch). Captain Planet, Sailor Moon, The Mighty Morphin’ Power Rangers
– những phim này đều là những bộ phim yêu thích của tôi thời nhỏ, bởi đều có một
hay nhiều đoạn tương tự nhau khi những kẻ tốt bụng xuất hiện: viên chỉ huy của
đội Ô nhiễm (Captain Pollution) và thành viên trong đội các “thiện nguyện viên
hành tinh” gây độc hại, bốn chị em của Mặt trăng Đen, hay là Người cảnh binh
đen tối Dark Rangers. Tôi cảm thấy như luôn có một sự cân bằng giữa hai bên, mạnh
mẽ, hài hòa, như biểu tượng âm dương.
Lớn lên, khuynh hướng nhìn thấy những điều hàm chứa sự tương
quan, được mở rộng ra hơn, trong cả các chính sách quốc tế, mà cụ thể là các hệ
tư tưởng đối lập, các quốc gia bị chia cắt trực tiếp, ví dụ Bắc Triều và Nam
Triều, hoặc Đông Đức và Tây Đức.
Một cách hoàn toàn tự nhiên, khoảng thời gian mà dân tộc – nhà
nước Việt nam thời hiện đại đã tồn tại như hai thể chế riêng biệt, đã gây một sức
nặng đáng kể trong tiềm thức của tôi, và tôi tin là cả trong tiềm thức của nhiều
người Việt hải ngoại. Rốt cuộc thì sự tồn tại song song ấy, sự đối kháng lẫn
nhau đến không đội trời chung, và sự tồn tại của bên này là triệt tiêu của bên
kia, chính là trách nhiệm mang tính quyết định duy nhất dẫn đến sự tứ tán của
người Việt ở khắp mọi nơi trên địa cầu, một sự bùng nổ của các photon con người
trong một trong nhiều cú va đập giữa một bên là chủ nghĩa cộng sản và bên kia
là chống cộng.
Tôi sinh ra tại Hoa kỳ; thời đó tôi chẳng hề biết, tất cả những
người Việt mà tôi đã từng tiếp xúc, đều là công dân của Việt nam Cộng hòa (tức
là miền Nam Việt nam) hoặc như tôi biết, đều là Việt nam. Không có bất kỳ ai
khác. Lá cờ vàng với ba sọc đỏ xuất hiện ở mọi nơi và là biểu tượng duy nhất của
Việt Nam mà tôi biết.
Quốc ca “đúng” và quốc ca “sai”
Từ điển bách khoa toàn thư điện tử Encarta Encyclopedia 97 đã
cho tôi những gợi ý đầu tiên về một sự thật khác, về một “Việt nam” khác – một
Việt nam “độc ác”, tôi sẽ nhanh chóng học được điều này. Tôi nhớ là hồi lớp 5
phải làm một dự án, dự án này đòi hỏi chúng tôi phải lập ra một “hồ sơ quốc
gia” cho một dân tộc nào đó tự chọn. Tôi tìm đến tập CD-ROM Từ điển Bách khoa
toàn thư, chẳng suy nghĩ gì nhiều, tôi copy lá cờ đỏ với ngôi sao vàng, lá cờ
chính thức của Việt nam như được dẫn trong danh mục các nước.
Ngoại là người đầu tiên “sửa” tôi một trận, ngoại la tôi khi
Encarta, từ điển Bách khoa toàn thư phát bài “Tiến quân ca”, bài quốc ca của miền
Bắc Việt nam từ 1945-1975, và là quốc ca chính thức của toàn bộ Việt nam từ sau
khi chiến tranh kết thúc. Đây không phải là quốc ca “đúng”, ngoại nói. Thông
tin trong bài viết này “sai”. Khi tôi hỏi, bài quốc ca thật là bài nào, ngoại
khe khẽ hát “Tiếng gọi công dân” – bài quốc ca của miền Nam Việt nam từ
1948-1975 – một âm hưởng quen thuộc hơn nhiều đối với tôi.
Sau khi kết thúc dự án, tôi nhờ mẹ kiểm tra bài. Những gì mẹ
làm, cho dù có hữu ý hay không, thì vẫn vang vọng trong tôi đến tận bây giờ.
Thay vì bắt tôi phải xóa đi lá cờ đỏ có ngôi sao vàng, mẹ bắt tôi vẽ lá cờ vàng
ba sọc đỏ của miền Nam Việt nam ngay bên cạnh, thể hiện cả hai lá cờ đều có giá
trị ngang nhau.
Phải mất ít nhất hai chục năm sau tôi mới ý thức được điều đó,
nhưng cử chỉ đơn sơ của mẹ là khoảnh khắc bài học vô cùng thấm thía, và đồng thời
thể hiện nỗi lúng túng của tôi với bản sắc Việt kiều. Đó là lần đầu tiên tôi nếm
trải khái niệm về các sự thật đầy mâu thuẫn nhưng cùng đồng thời tồn tại.
Lớn dần lên, tôi chẳng bao giờ dành cho miền đất xa xôi này nhiều
suy tư; khái niệm về mảnh đất này và những con người ở đó được hình thành sẵn
trong tôi. Chúng tôi (những người miền Nam) là những kẻ tử tế; họ (những người
miền Bắc) là những kẻ thật không ra gì. Tất cả những gì chúng tôi nói lên, đều
là sự thật; những điều họ nói, là gian dối cả. Tôi chẳng bao giờ thắc mắc, tại
sao chúng tôi lại sống ở nước khác.
Lên đại học, tôi trở thành thành viên tích cực trong một tổ chức
sinh viên Việt nam, rồi một giáo sư người Việt tốt bụng đã mở ra cho tôi một
giai đoạn nhận thức mới. Tôi bắt đầu tiến những bước đầu tiên về miền cân bằng,
rồi các bước tiến khác hướng về sự thật… hay nói đúng hơn, nhiều sự thật.
Từ Bắc vô Nam
Ở Việt nam, “nam tiến” có nghĩa là “đi vào miền Nam”, cụm từ này
muốn nói đến việc mở rộng bờ cõi về hướng nam, từ đồng bằng sông Hồng xuống đồng
bằng sông Cửu long. Quá trình phát triển này định nên hình dáng đã có từ rất
lâu của nước Việt. Ngược lại với những người hay ví nước Việt với cây quang
gánh hay với hình chữ S, tôi thích nghĩ đến đất nước này trong một khái niệm trừu
tượng hơn: một quá khứ từng hướng về phương Bắc đang bay tới tương lai hướng về
phía Nam.
Đồng bằng sông Hồng được coi là “chiếc nôi” của Việt nam, là trung tâm văn hóa và chính trị truyền thống. Miền Bắc và người dân ở đây thường được ghi nhận là xứ bảo thủ, khổ hạnh, thường chịu thiếu thốn cả về tài nguyên và thực phẩm. Điều đó tạo nên tính cách Bắc dẻo dai, cứng cỏi, cách nói gián tiếp, khái niệm “giữ mặt” (liên quan tới khái niệm danh dự hay là uy tín của ai đó) và ẩm thực đơn giản, không nhiều rau thơm và gia vị.
Đất nước mở rộng dần về miền lãnh thổ của người Chàm và Khmer, một
trung tâm quyền lực độc lập bắt đầu phát triển tại miền Nam, cuốn hút những người
này vào cuộc sống nơi “biên ải” và môi trường pha trộn đa văn hóa. Với bản tính
tự lựa chọn, cuộc mở mang bờ cõi về phía Nam của Việt nam đã tạo nên những lớp
người rong ruổi trên bánh xe tự do, luôn nhìn về phía trước, có tư tưởng tự do
bình đẳng, người công dân của thế giới. Miền Nam luôn dồi dào các loại đồ ăn và
tài nguyên; Sài gòn – ngày trước được biết dưới tên gọi của người Khmer là Prey
Nokor và tên Hán-Việt hiện nay là Thành phố Hồ chí Minh – đã thu hút được các
doanh nhân từ khắp nơi trên thế giới, và nói chung cuộc sống ở đây thoải mái hơn
và phồn thịnh hơn.
Các bối cảnh mang tính lịch sử này đã tạo nên hình ảnh người miền
Nam là như thế nào: chúng tôi nói giọng kéo dài, thong dong và với cách nói thẳng
thừng, chúng tôi có các món ăn thơm ngon, quyến rũ, pha trộn từ nhiều vùng miền,
và chúng tôi có được góc nhìn tiến bộ, cởi mở, gần gũi với khuynh hướng của thế
giới. Không có gì ngạc nhiên khi miền Nam Việt nam đã háo hức đón nhận kiểu
trang phục, phong cách và văn hóa Mỹ trong khoảng thời gian từ 1950-1970.
Nhưng đó không chỉ là vấn đề của các tính cách đặc trưng hay ẩm
thực, tính địa phương chủ nghĩa tới mức cực đoan của nó đã nhiều lần dẫn đến việc
người Việt giết hại người Việt. Nhà văn Huy Đức đã miêu tả Việt nam như một
ngôi nhà mà “tường của nó được xây bằng xương và máu”. Đó không chỉ là phép ẩn
dụ.
Bắc chống Nam
Một cuộc nội chiến trong thế kỷ 17 đã thực sự trở thành một điềm
báo kỳ quái cho các sự kiện của 3 thế kỷ sau này. Miền Bắc và miền Nam đã bị
tách thành hai thể chế: Đàng Ngoài và Đàng Trong, là một cách văn vẻ để chỉ “kẻ
bên ngoài” và “người bên trong”. Các Chúa nhà Trịnh cai trị tại miền Bắc, còn
nhà Nguyễn cai quản miền Nam. Cuối cùng, vào năm 1802 nhà Nguyễn ở miền Nam đã
thắng được các đối thủ họ Trịnh, thống nhất đất nước dưới sự bảo hộ của miền
Nam. Một liên quan mơ hồ với thời kỳ gây nhiều tranh cãi này vẫn còn trong ngôn
ngữ của chúng ta: đến tận bây giờ người Việt vẫn nói rằng họ đi “ra” Hà nội và
đi “vào” Sài gòn.
Cuộc nội chiến trong thế kỷ 20 giữa miền Bắc và miền Nam đã là một
sự lặp lại ngược lại. Hiệp định Geneva lại một lần nữa, chia Việt nam thành hai
phần theo hai hướng – những người cộng sản tại miền Bắc và những người theo phe
dân chủ ở lại miền Nam – với một cuộc tổng tuyển cử toàn quốc sẽ được ấn định
trong vòng hai năm nhằm thống nhất đất nước. Hồ chí Minh được cho là sẽ thắng cử.
Biết được điều đó, Ngô Đình Diệm đã tuyên bố thành lập một nước cộng hòa độc lập
tại miền Nam, mà về kỹ thuật thì không phải là người ký kết Hiệp định Geneva và
không còn bị Hiệp định này ràng buộc. Hoa kỳ ủng hộ chính quyền miền Nam Việt
nam phi cộng sản, và đổ vào đó các cứu trợ tài chính. Chiến thắng của miền Bắc
năm 1975 lại một lần nữa thống nhất đất nước, nhưng tùy theo vị thế người ta
đánh giá sự kiện đó khác nhau. Phụ thuộc vào việc bạn nói chuyện với ai, mà
ngày 30/4/1975 – ngày Sài gòn thất thủ trước Quân đội Nhân dân Việt nam và Việt
cộng – sẽ được coi là một cuộc giải phóng hoặc là một cuộc xâm lăng.
“Phụ
thuộc vào việc bạn nói chuyện với ai, mà ngày 30/4/1975 – ngày Sài gòn thất thủ
trước Quân đội Nhân dân Việt nam và Việt cộng – sẽ được coi là một cuộc giải
phóng hoặc là một cuộc xâm lăng.”
Mẹ tôi thường xuyên nhắc nhở, rằng tôi là người miền Nam. Khi
tôi lần đầu tiên theo học lớp tiếng Việt tại trường Cao học và bắt đầu phát âm
các phụ âm v, qu, và âm n ở cuối từ, mẹ và các dì lớn tuổi la lên, rằng tôi
đang “trở thành một gã Bắc kỳ”. Trong lớp, tôi rất nhanh chóng hiểu ra rằng tiếng
Việt mà tôi sử dụng ở nhà mang đậm dấu vết ngôn từ của thời trước 75. Một số lượng
lớn bất thường những người miền Nam đã bứng chính bản thân mình sang nơi khác
vào những năm 70-80, đã tạo lập các cộng đồng mà cũng như những viên nang, thời
gian ở đó như dừng lại.
Tuy nét miền Nam trong giọng nói tiếng Việt của tôi hiện và ẩn
tùy thuộc vào mức độ tôi say xỉn đến cỡ nào, nhưng niềm tự hào về bản sắc đó
trong tôi luôn lộ rõ. Ngày đầu tiên trên lớp tiếng Việt trình độ cao tại Trường
Đại học Nhân văn và Khoa học Xã hội Thành phố Hồ chí Minh năm 2012, giáo sư hỏi
tôi “Will là người gì?”
Không nghĩ ngợi nhiều, tôi trả lời, “Will là người Nam”.
Bất ngờ nhưng ngạc nhiên một cách thú vị, bà giáo sư nói, trong
suốt 30 năm giảng dạy, bà chưa từng nghe một câu trả lời như vậy từ những ai
“sinh ra ở nước ngoài”. Mặc dù tôi đã sửa ngay, Will là người Mỹ gốc Việt,
nhưng để lại dấu ấn của sự lăn tăn trong bản sắc.
Các cuộc trò chuyện
Các tìm hiểu của tôi về lịch sử giữa miền Bắc và miền Nam thường
bao gồm các cả việc vặn vẹo các bạn người Bắc về các đề tài nhạy cảm. Một lần
tôi hỏi vị giáo sư người Việt của tôi trong trường Đại học tại Hoa kỳ về một
trong các tên gọi của cuộc chiến tranh Việt nam – Chiến tranh chống Mỹ cứu nước
– và là điều đã ngụ ý rõ ràng rằng người miền Nam là kẻ đã cộng tác với phe tư
bản. (Chỉ lưu ý, Tổng thống đầu tiên của miền Nam Việt nam, ông Ngô Đình Diệm
và người em của ông là Ngô Đình Nhu, cả hai đã bị ám sát trong sự hỗ trợ thầm lặng
của Hoa kỳ, bởi không đủ ngoan ngoãn nghe lời). Các khẩu hiệu tuyên truyền sau
này trên các áp phích trên đường phố Sài gòn cũng là một sự ngỡ ngàng.
Dĩ nhiên là tôi đã nghiên cứu kỹ cả phía bên kia, tôi đọc hàng
loạt sách báo, và xem không biết bao nhiêu cuộc phỏng vấn các nhân vật thuộc
bên cộng sản, cả những người ngồi tại Hà nội, và cả những người đóng quân trong
rừng sâu miền Nam Việt nam.
Trong đợt về Việt nam lần đầu tiên vào mùa hè năm 2007, tôi đã sử
dụng quyền tự do của mình khi làm dự án nghiên cứu về văn hóa đồng tính tại Sài
gòn để thi thoảng hỏi han người dân các suy nghĩ của họ về cuộc chiến, về cuộc
sống sau năm 75, về chính phủ hiện nay của họ.
“Những tấm áp phích sặc sỡ này… có ở khắp nơi. Trông thật lạ… nhỉ?“ Đấy
là cách tôi mở đầu đề tài với người lái xe ôm. Một cách đời thường. Với một kết
thúc mở. Các dấu ấn của sự tuyên truyền, với các hình khối, màu sắc nghiêm túc,
hình ảnh với phong cách Xô viết đã thực sự là một sự lạ lẫm đối với tôi. Đó là
các sản phẩm do chính phủ đặt hàng, công khai mang dấu hiệu chính trị, ca ngợi
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong lịch sử, tại mảnh đất miền Nam hoàn toàn
“giải phóng” trên đất nước Việt nam phát triển, “hiện đại”, văn minh. Và nó thực
sự có mặt ở khắp mọi nơi. Lái xe đi theo vô số các dấu ấn đang rải rác khắp
thành phố, tôi đã tận dụng cơ hội để hỏi người lái xe máy về suy nghĩ của họ đối
với thể chế chính trị hiện nay.
“Họ là một phường lừa đảo”
“Họ có thiết gì đến người dân”
Một người lái xe cho tôi đi ngang một ngôi nhà khá lớn, anh cho
biết, đó là dinh thự của một nhân vật nổi tiếng trong Đảng. Những người lao động
làm nghề lái xe này cùng có chung một suy nghĩ về sự vụ lợi.
Câu chuyện của một người bà con người Nam lớn tuổi cũng khá thú
vị, bởi bà đủ nhiều tuổi để trải nghiệm công cuộc “giải phóng” và các năm tháng
tiếp sau đó. Tôi được gặp bà thông qua bạn bè của gia đình của mẹ tôi. (Mẹ tôi
lo ngại cho sự an toàn của tôi, tôi là người đầu tiên trong gia đình trở về, từ
khi rời bỏ Việt nam, và tôi sẽ đi hoàn toàn một mình với tư cách là một đứa trẻ
sinh trưởng trong một gia đình “cộng tác với địch”).
Vừa đến nhà, tôi đã thấy ấn tượng, bởi căn nhà rộng và hiện đại.
Căn nhà có mặt bàn bếp bằng đá, sàn gỗ cứng, bộ bàn ghế bằng gỗ anh đào kiểu cổ
điển, ấn tượng. Nó sang trọng so với tiêu chuẩn ở Việt nam; với ít nhất là 4
chiếc xe máy trên khoảng sân rộng, rõ ràng là gia đình này khá may mắn.
Bà và tôi ngồi trong phòng khách, nói những chuyện thông thường
về gia đình, cho đến khi câu chuyện quay sang đề tài cuộc sống ngay sau
30/4/1975.
Đến lúc này, bà đứng dậy khép tất cả các cửa và cửa sổ, rồi hạ
rèm. Bà hạ giọng thì thầm cho đến tận cuối câu chuyện. Dưới thời Cộng hòa, gia
đình bà là gia đình làm ăn và đã tích cóp được một phần tài sản không nhỏ. Sau
khi cộng sản vào thành phố, biết được ảnh hưởng của gia đình, các thành viên của
đảng tại địa phương đã tìm được lý do để chiếm đoạt ngôi nhà. Lúc đó, không thể
chống lại lệnh chuyển, vì thế gia đình đã quyết định làm việc trong chế độ mới,
họ thiết lập đủ các quan hệ chính trị để đòi lại căn nhà trong vòng khoảng chừng
một thập kỷ. Câu chuyện của bà hàm chứa một độ khinh khi đáng kể đối với những
người thuộc bộ máy quyền lực, nhưng sự mềm dẻo, kiên trì, tính tháo vát của gia
đình đã làm lu mờ mọi điều khác trong tôi. Đó là một sự bất công được hoàn sửa
lại bằng sự thao túng đầy mưu mẹo trong một hệ thống chính trị xa lạ được du nhập.
Vì thế bà vẫn đầy hoảng sợ khi cả 30 năm sau nói về mức độ giám sát để thâm nhập
và đàn áp của nhà nước đang đè lên cuộc sống của người dân Việt.
Một góc nhìn khác được hình thành nhờ một người bán bưu ảnh
tuyên truyền ở miền Bắc. Thấy tôi qua lại cửa hàng của cô nhiều lần, lại đoán
tôi là Việt kiều, cô chủ động nói chuyện với tôi về lịch sử và chính trị.
Tôi hơi bất ngờ nhưng vui mừng vì sự thân thiện và nhiệt tình của
cô muốn giúp tôi hiểu về Việt nam. Cô nói tôi có thể hỏi cô bất cứ điều gì tôi
muốn. Biết tôi xuất thân từ một gia đình miền Nam đã bỏ ra đi ngay sau chiến
tranh, cô biết tôi còn đủ nghi ngờ đối với chủ nghĩa cộng sản và thể chế chính
trị hiện tại, và cô cố gắng dùng hết khả năng để tìm lý lẽ chứng minh cho bên
thứ hai. Cô nói cô đã vào thành phố Hồ chí Minh ngay sau giải phóng.
“Khi
người ta làm việc chống lại những người chiến thắng, thì một cách tự nhiên, người
ta sẽ thấy sợ hãi khi họ xuất hiện”
Tôi đi thẳng ngay vào các vấn đề gai góc. Tại sao ở miền Nam lại
có nhiều người bỏ đi như thế? Trại cải tạo là cái gì? Tại sao nhà chức trách gọi
chính thể hiện nay là “dân chủ” trong khi nó chỉ do một đảng cầm quyền?
“Người ta bỏ đi bởi vì sợ bị báo thù”, cô nói. “Khi người ta làm
việc chống lại những người chiến thắng, thì một cách tự nhiên người ta sẽ thấy
sợ hãi khi họ xuất hiện”.
Trại cải tạo, cô tiếp tục nói, không tồi tệ chút nào: “Ở những
trại mà tôi đến có các khu vườn rất đẹp và các thảm hoa. Trong mọi trường hợp,
cháu cần hiểu tình thế mà chính quyền mới đang phải đối mặt. Cháu có toàn bộ
dân chúng là những người lớn lên dưới chế độ của kẻ thù. Khi cháu nắm được
chính quyền, cháu phải đảm bảo được rằng những người này sẽ cộng tác, cháu phải
đảm bảo được rằng nhóm người này được giáo dục theo cách thức của chế độ mới”.
Câu trả lời của cô bắt đầu không còn chắc chắn khi nói đến chế độ
“dân chủ” hiện nay. “Chúng tôi có bầu cử. Chúng tôi có bỏ phiếu. Chúng tôi có
các đại biểu, những người này làm thành Quốc hội”, cô nói.
“Vâng, nhưng tất cả những điều đó có nghĩa lý gì nếu như người
ta chỉ có thể lựa chọn các đại biểu của một đảng”, tôi phản đối. “Nếu tất cả đều
buộc phải tuân theo một hệ tư tưởng, có cùng các ý tưởng, bầu chọn mới là một
điều đáng phải tranh luận. Nền dân chủ đích thực luôn có nhiều đảng phái”. Cô
không đồng ý, và khẳng định rằng bởi vì các cơ quan nọ có tồn tại, cho nên Việt
nam có dân chủ.
Sự thuyết phục và dân chủ
Để chắc chắn, cần phải nói thêm, sự thật là một đề tài nhạy cảm
cho cả hai bên; tôi đã lớn lên và bị mắc lại trong phe chống cộng, chứ không phải
là trong phe chống tư bản. Nhiều các cố gắng khác nhau để cải thiện tình hình
đã dẫn tới những khoảng khắc khó xử. Tôi nhớ một câu chuyện giữa mẹ và dì tôi,
mẹ nói mẹ thuận lòng để nhà nước cộng sản giữ cho đất nước về thành một mối và
phát triển kinh tế ở một mức đủ nhanh, nhưng dì tôi ngay lập tức gạt đi, rằng cậu
tôi – người đã phục vụ trong quân đội Việt nam Cộng hòa – sẽ cho dì một trận nếu
như cậu nghe dì nói điều gì tương tự.
Đến hôm nay tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu, càng ngày tôi càng giữ
cách tiếp cận cuộc chiến và các hệ tư tưởng cạnh tranh của nó một cách ít phân
cực hơn, nhiều sắc thái hơn so với mẹ tôi có lẽ sẽ hài lòng. Trong một cuộc phỏng
vấn của BBC, người ta đã hỏi bà Nguyễn Thị Bình, người miền Nam, cựu Bộ trưởng
Bộ ngoại giao của Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt nam và là một nhân
vật cộng sản nổi tiếng tại Hiệp định Paris, bà nghĩ gì về những người Việt bất
đồng chính kiến và ước nguyện của họ cho một dân tộc tốt đẹp hơn. Bà vặn lại:
“Họ có khác gì tôi đâu?”
Sự phân chia lưỡng cực “cái thiện chống cái ác” đã ăn quá sâu
trong các câu chuyện của miền Bắc và miền Nam đến mức chưa bao giờ tôi ngờ nó đến
mức này, cho đến khi tôi gặp nhận xét này. Những con người ấy, những người cộng
sản ấy đã ngã xuống cho lý tưởng, cho đất nước của mình và có lẽ đã ngã xuống một
cách có ý nghĩa nhất cho đồng bào của mình. Phải chăng chúng ta có thể tin theo
cách nghĩ đầy hoài nghi rằng những người đã chiến đấu trên chiến tuyến của miền
Bắc đã hy sinh cả tuổi xuân của cuộc đời mình, và đôi khi hy sinh tất cả cuộc đời
mình, chỉ đơn giản là để nắm quyền trên cả xương máu của những người cùng quê
hương Việt nam?
Một mặt khác, miền Nam đấu tranh cho cái gì? Đào sâu trong các
cuốn sách lịch sử Hoa kỳ, người ta khó có thể tìm thấy một lời giải đáp thực sự,
được lý giải kỹ càng, ngoại trừ câu trả lời theo “thuyết domino”, và thuyết này
lý giải rằng một đất nước rơi vào tay chủ nghĩa cộng sản sẽ tạo ra hiệu ứng
domino trong phạm vi các nước lân cận. Đọc các tài liệu như vậy thì rất khó mà
không ngả theo quan điểm (của Hà nội) cho rằng miền Nam Việt nam chỉ là một thực
thể do Hoa kỳ dựng nên. Thực tế là, càng nghiên cứu tôi càng ngộ ra thêm sự mâu
thuẫn trong chính người dân miền Nam, mà đã dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng đầy
lúng túng của miền Nam Việt nam.
Khi được hỏi, tại sao họ lại chiến đấu và chiến đấu vì lý do gì,
những người lính miền Nam Việt nam thường tỏ ra không được chắc chắn lắm với lý
do của chính mình. Giày và quân phục bị những người lính đào ngũ trút ra và bỏ
lại trên đường ngày 30/4/1975 đã minh chứng cho thực tế này.
Có thể trong thời gian chiến tranh cư dân miền Nam Việt nam chưa
có đủ khả năng để trả lời câu hỏi “chúng ta chiến đấu cho cái gì?” nhưng sự quản
lý kinh tế yếu kém và sự đàn áp về chính trị sau khi thống nhất trong vài thập
kỷ tiếp đó có lẽ đã và đang mang lại cho họ một câu trả lời hùng hồn, đặc biệt
là đối với những người không có khả năng bỏ chạy ra khỏi đất nước.
Đầu những năm 2010, khoảng gần một thập kỷ tìm kiếm và đọc, góc
nhìn của tôi trưởng thành dần, từ chỗ “công nhận bên mình có thể đã ‘sai’ đến
chỗ “không được quên một thực tế là nền dân chủ mà miền Nam cố gắng theo đuổi,
còn cao thủ hơn chế độ toàn trị mà chủ nghĩa cộng sản đã đưa vào miền Bắc”. Cả
hai đều là hệ tư tưởng được du nhập từ nước ngoài, và thực tế là bên này đánh bại
được bên kia đã không mang lại bất cứ lợi lộc nào. Như Dương Thu Hương, nhà văn
và nhà bất đồng chính kiến Việt nam đã phát biểu chí lý “không phải lúc nào cái
đẹp cũng chiến thắng”.
Phim ảnh và truyền thông vốn bị người Bắc chi phối hoàn toàn, sự
thách thức của người Nam đang dần dần lộ diện. “Chỉ đến khi đánh mất một điều
gì đó, thì ta mới biết trân trọng nó”, bản trailer năm 2017 của bộ phim Cô Ba
Sài gòn (The Tailor) bắt đầu. Ngay sau giọng nói miền Nam dẫn phim là hình ảnh
cận cảnh tòa thị chính Sài gòn, ống kính chiếu trực diện cây cột cờ – trên đó
là cờ của Việt nam Cộng hòa bay bay. Cờ đỏ với ba sọc vàng. Đầy hàm ý nhưng dễ
nhận biết với những ai có ý tìm hiểu.
Ống kính từ từ quay cảnh thịnh vượng về kinh tế, và cảnh các tà
áo dài truyền thống sống động, để nhấn mạnh nền văn hóa Việt nam nở hoa kết trái
dưới chế độ “phát xít” và “bù nhìn”. Những hình ảnh này được đưa lên màn ảnh đã
làm xói lở trực tiếp câu chuyện của người cộng sản về việc Sài gòn cần được “giải
phóng”. Và một câu hỏi quan trọng thường được đặt ra giữa các nhà bất đồng
chính kiến cả trong và ngoài nước là “ai giải phóng ai?” Phải chăng miền Bắc
nghèo khổ quả thật đã giải phóng được miền Nam sung túc? Hơn nữa miền Nam cần
được giải phóng khỏi điều gì? Giải phóng khỏi cuộc sống tiện nghi, sung túc và
yên bình chăng?
Bộ phim đề cao việc bảo tồn tà áo dài – một trang phục truyền thống
của Việt nam – đề cao hơn cả các mốt phương Tây trong thập niên 1960 tại Sài
gòn, nhưng thông điệp nổi loạn, được bọc trong sắc phục là một bộ phim ngây thơ
về mốt, là không thể lẫn. Mất mát của miền Nam Việt nam về mặt chính trị là nặng
nề hơn so với mặt văn hóa: người dân không còn được sở hữu các quyền tự do, dân
chủ và môi trường xã hội dân sự sống động. Mặc dù việc thực thi các quyền này ở
miền Nam Việt nam chưa phải là hoàn hảo, quyền tự do biểu đạt khá thoải mái đã
mang lại sự phồn thịnh và một xã hội có chất lượng tốt hơn so với những gì Việt
nam ngày nay hiện đang có. Nhiều người Việt, không thể thể hiện thái độ không
hài lòng của mình với hiện trạng của hòm phiếu bầu, đành bỏ phiếu bằng chân. Bỏ
nước ra đi là giấc mơ của những ai có điều kiện làm như thế. Hà nội từng sẵn
sàng thừa nhận Việt nam bị chảy máu chất xám.
Dẫu vậy, cần phải công nhận rằng cuộc chiến tranh là một bản
tuyên ngôn của cả miền Bắc và miền Nam đều mong muốn điều tốt đẹp nhất cho người
dân Việt, mặc dù mỗi bên chọn một con đường hoàn toàn khác nhau. Sẽ là hoài
nghi đến mức không thể tha thứ được nếu tin vào điều ngược lại rằng cả hai
chính quyền đều không phải là chủ thể nguyên vẹn do các cá thể người Việt
yêu nước tạo thành. Cội rễ của sự tranh chấp bắt nguồn ở sự cạnh tranh của cả
hai bên để trở thành phe duy nhất đúng. Cả hai miền Bắc và Nam đều có lý
do để tin mình là chính đáng – một thực tế mà người Việt cả trong nước và hải
ngoại vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận
Trên giấy tờ và về mặt ngoại giao chỉ có một Việt nam là “thật”.
Mặc dù miền Nam Việt nam đã không còn tồn tại kể từ 30/4/1975, nó vẫn sống
trong tim và trong tâm trí của hàng triệu người Việt không ưa gì chế độ độc tài
cộng sản. Nó tiếp tục sống trong một thực tế là sự vắng mặt bị bắt buộc của nó
trong mọi cuộc thảo luận trong lòng dân tộc Việt. Một sự im lặng, về bản chất
là sự cấm đoán đối với lá cờ vàng ba sọc đỏ, là không được nhắc đến miền Nam Cộng
hòa trong nghĩa tích cực, là cấm mọi quan hệ đối với thể chế cũ này, một cách
nào đó, lại đang tiếp tục duy trì sự tồn tại của miền Nam Việt nam. Nếu như lịch
sử có chỉ ra cho ta những bài học, thì đó là miền Nam không quên.
WILL NGUYỄN, Thanh Mai dịch
———————–
Tác giả Will Nguyễn tự cho mình là
“con mèo thí nghiệm của Schrödinger”, giữa phương Đông và phương Tây. Tùy theo
góc nhìn của mỗi người mà anh có thể là người Việt, hay là người Mỹ. Will tốt
nghiệp trường Đại học Yale năm 2008, với bằng cử nhân ngành Các nghiên cứu về Đông
Á (Bachelor in East Asian Studies). Anh vừa tốt nghiệp chương trình Thạc sĩ tại
trường Lee Kuan Yew ngành Hành chính công (Public Policy), trong đó anh đã tiếp
tục theo đuổi đề tài lịch sử, văn hóa và chính trị Việt nam.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment