On Friday, April 22, 2016 7:14 PM, <>
wrote:
Nhìn xem CS tiêu diệt Phật Giáo ai cũng đau lòng .
CS đem Hồ Chí Minh đặt trước Đức Phật .
Muốn lạy Phật thì phải lạy HCM trước .- Phải
thắp nhang trước tượng HCM .
---------- Forwarded message ----------
From: danvan tapchi <
Date: 2016-04-22 14:09 GMT+02:00
Subject: Ban Tin cua TCDV - SU QUOC DOANH - SACH LUOC TINH VI DE TRIET HA TONGIAO..
To: ngonngu_viet
From: danvan tapchi <
Date: 2016-04-22 14:09 GMT+02:00
Subject: Ban Tin cua TCDV - SU QUOC DOANH - SACH LUOC TINH VI DE TRIET HA TONGIAO..
To: ngonngu_viet
BẢN TIN CỦA TẠP CHÍ DÂN VĂN
(XIN TIẾP TAY PHỔ BIẾN THẬT RỘNG RÃI - CHÂN THÀNH CẢM
TẠ.)
------------------------------------------------------------------------------------------------
------------------------------------------------------------------------------------------------
LTS: Đây là một sách lược của đảng csvn, tất cả
các ông công an được tuyển chọn cho cạo đầu, mặc áo tu hành, đều được huấn
luyện “tự do phạm giới”, các chùa chiền tại VN “sống” được nhờ sự cúng dường
của thập phương bá tánh, nay thấy lớp tu hành sống bê tha trụy lạc như thế thì
còn ai đến chuà chiền nữa, chuà vắng bóng phật tử thì chuà sẽ “chết”.
Đây là sách lược thật thâm độc của đảng csvn để “triệt hạ” đạo Phật về lâu về dài mà
không kết tội chúng được.
Bên đạo Thiên Chuá, chúng cũng muốn tiêu diệt, nhưng vì
đạo Công Giáo có tổ chức chặt chẽ hơn nên không dễ dàng như bên đạo Phật, điển
hình bọn vô thần này đã gài được một vài ông chủng sinh như ông Linh Mục có vợ
2 con Phan Khắc Từ, mà vẫn mặc áo chùng đen, vẫn coi giáo xứ Vườn Xoài, tại xứ
đạo Bùi Phát, đường Trương Minh Giảng, quận 3, Saigon.
Bà Dương Thu Hương đã có nhiều bài viết vạch trần “tội
ác” của đảng csvn, nhưng cái nhìn của bà nhà văn này chưa sâu sắc, chưa nhìn
thấy kế sách tinh vi của cái bọn vô thần chủ trương vô tôn giáo...
Trân trọng.
Germany, 22.04.2016
- Điều Hợp Viên DĐ Ngôn Ngữ Việt,
- Chủ Nhiệm TCDV.
LÝ TRUNG TÍN
-----------------------------------------------------------------
Dương Thu Hương: Sư Quốc Doanh
Sau khi trả lời ông Đinh Ngọc Ninh bỗng nhiên tôi nhận
được một loạt thư, hỏi:
– Bà có phải phật tử không? Chúng tôi thấy
nhiều quan điểm trong bài viết của bà rất gần với lý thuyết đạo Phật.
– Nếu điều chúng tôi nghi ngờ là đúng, tại
sao một người đấu tranh cho dân chủ lại có thể là phật tử?…..
Câu trả lời của tôi là:Tại sao không?
Đạo Phật không biên giới. Đó là một tôn giáo
thẫm đẫm tính đạo đức và triết lý. Đạo Phật cũng như bất cứ tôn giáo nào khác
đều tồn tại và phát triển thông qua hằng hà sa số các cá nhân. Bất cứ cá nhân
nào cũng có một gốc rễ văn hóa, cũng mang một nhãn hiệu bản thể gọi là quốc
tịch. Do đó khi trong một con người cùng tồn tại song song hai tình yêu lớn:
tôn giáo và tổ quốc, người đó ắt phải tranh đấu cho hai kỳ vọng, hai niềm tin.
Vì thế, câu trả lời của tôi là: Tại sao
không?
Tuy nhiên, tôi chỉ là phật tử theo cách của
riêng tôi. Tôi không đi lễ chùa. Chẳng phải là cố tình tìm một cách tồn tại độc
đáo nhưng vì tôi không có khả năng thỏa hiệp, cho dù đó là một sự thỏa hiệp dễ
chịu nhất.
Cách đây chừng mười bảy mười tám năm một ngày
Xuân tôi đi viếng cảnh chùa. Ngôi chùa đó nằm gần phủ Tây Hồ. Trên đường tới
phủ rẽ tay phải chừng non trăm mét là tới. Tôi không còn nhớ rõ tên chùa mặc dù
đó là nơi trước khi xảy ra sự việc năm nào tôi cũng tới, khoảng một hai tháng
một lần, siêng năng nhất là mùa xuân và mùa Thu. Đó là ngôi chùa cổ còn may mắn
sót lại sau những cơn đốt phá đình chùa đền miếu theo chủ trương”tiêu diệt tàn
dư phong kiến” của chính quyền cộng sản. Không có gì đặc biệt ở ngôi chùa ấy,
ngoài một mảnh vườn nhỏ vừa trồng đào vừa trông mai. Có lẽ cảnh tượng thân ái
của những cây đào và cây mai chen vai, thích cánh cuốn hút tôi vào mùa xuân và
khi mùa thu đến, đám cành trần trụi khẳng khiu vươn lên trong lặng lẽ cũng mang
lại một vẻ đẹp u sầu và nghiêm cẩn, vẻ đep ta thường gặp ở mọi ngôi chùa cổ xứ
Bắc.
Hình minh họa
|
Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân
lên bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào với chốn
từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát cháo ăn dở ở một
góc phản khô đét lại. Nhà”sư nữ” ngoại tam tuần mắt long sòng sọc, tay nắm cổ
người bệnh lắc, miệng rít lên:
– Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ!….
Sư cụ đã quá yếu không động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng
như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ hung hãn:
– Mày chết đi…..
Tôi định lui ra nhưng cô ta đã nhìn thấy tôi. Quá muộn cho cả đôi
bên. Hẳn cô ta không ngờ có kẻ đột nhập vào “ngang hông” bởi thông thường khách
thập phương phải qua sân đi vào chùa chính. Cô ta không biết rằng tôi quen mọi
ngõ ngách và thường đi tắt qua nhà ngang vào chùa sau để hầu chuyện sư cụ.
Không thể mở miệng”mô phật” như lần trước cô ta ném cho tôi một cái nhìn giận
dữ và thách thức rồi ngoay ngoảy quay đi. Tôi ngồi xuống phản với sư cụ. Cụ
không mở mắt nổi và giọng nói đã đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Đó là
người đã xuống tóc từ thời chính quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu
tạo ngôi chùa này qua mọi thăng trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may
quyền hành để lưu giữ các chân tu ở lại, thay cụ chủ trì.”Nhân sự” do”bên trên”
đưa xuống.
Vậy cái gì là “bên trên”?
Quyền
lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa chiền
xứ sở? …. Chẳng có gì bí mật cả,”bên trên” là A 25 Cục bảo vệ văn hóa thuộc
Tổng cục 1 Bộ Nội vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để”yểm” Hội Phật giáo
Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc. Không ai quên rằng chính nhà
nước cộng sản đã dấy lên cơn bão kinh hoàng nhằm tàn phá đình chùa, đền miếu
thậm chí đào mồ hốt mả chúng sinh, tiêu diệt tất cả những gì mà họ cho là”tàn
tích của chế độ phong kiến”.
Trong một thời gian dài, những người cộng sản muốn xóa sạch tất cả
các tôn giáo, bắt chúng sinh thờ vị thần duy nhất mắt xanh mũi lõ tên là Karl
Marx và đám tông đồ của ông ta. Nhưng để xóa đi một đức tin và thay thế vào một
đức tin khác không dễ dàng như họ tưởng. Và không phải bất cứ lúc nào họng súng
cũng đem lại những kết quả mong muốn. Thời gian không ủng hộ họ. Bức tường
Berlin sụp đổ và Lénine vĩ đại của họ sụp đổ theo. Dân Nga xích cổ tượng ông ta
kéo lê trên bùn. Đám tín đồ phương Đông đứng chơ vơ không biết từ nay”người cầm
lái vĩ đại” của họ sẽ là ai?
Trong
lúc đó dân chúng ào ào dựng đình, cất chùa. Khắp nơi miếu mạo, đền chùa, lăng
tẩm dựng lên theo trí nhớ. Chính quyền cộng sản có thể truy bức tàn sát chúng
sinh, cướp bóc phá hủy tài sản của họ, nhưng trí nhớ và niềm tin là những thứ
không thể bắn thủng bằng các loại đạn. Và như thế, giờ đây dân chúng đã xây lại
tất cả những gì đã từng bị họ tàn phá, nếu không nói là còn nhiều hơn. Nhu cầu
tâm linh hóa ra cũng là một nhu cầu sinh tử của kiếp người.
Trước tình hình này
A 25 trở nên quan trọng hơn trong vai trò”bảo vệ nền chuyên chính”. Nhiệm vụ
của họ là”khống chế hội phật giáo” biến chùa chiền toàn quốc thành hệ thống
pháo đài của quyền lực, rình mò theo dõi tư tưởng dân chúng và ….điều này nữa,
các tín đồ của Marx không quên: tận thu nguồn lợi béo bở từ đám chúng sinh “mê
tín” kia. Vậy là đội quân “sư nhà nước” được hình thành. Nguồn đào tạo chính là
C 500 (đại học ngành an ninh). Thêm nữa, sinh viên tuyển lựa từ các đại học
khác như Tổng hợp, Sư phạm, Ngoại ngữ … có thành phần cơ bản (lý lịch đáng tin
cậy) được vũ trang bằng lý thuyết giai cấp của Marx-Lénine và một thứ chủ nghĩa
duy vật hạ đẳng. Sau đó, lớp người này được”tráng men” bằng lý thuyết đạo Phật
và trước hết các phương pháp niệm kinh, hành lễ để “vào nghề”.
Như thế nhà nước cộng sản đã tạo nên một đội ngũ”tôi tớ trung
thành”được quyền thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất và nhục thể dựa trên sự đầu cơ
trục lợi”những khát vọng tâm linh” của dân chúng. Các ông sư bà sư áo quần phấp
phới cưỡi xe vù vù đi “họp kín”. Họp kín ở đây tức là họp “giao ban” ngành dọc
A 25. Họ báo cáo rành mạch mọi thành tích. Riêng những cọc tiền thu được từ các
hòm công đức là “không thể rành mạch”vì các sư còn phải mang về quê xây nhà
tầng và lo cho các con học đại học trong nước và ngoài nước. Sư hành nghề ở
Thái Nguyên, Hà Bắc thường có quê quán gia thất tại Thanh Hóa, Nam Định và
ngược lại … So với các nghề khác trong Bộ Nội vụ,”nghề làm sư” là béo bở, chỉ
thua kém “Cục buôn lậu ma túy” thôi.
Cả một bộ máy lừa bịp vận hành nghiễm nhiên và ngang nhiên dưới
ánh mặt trời, trước mắt dân chúng.
Dân chúng, tuy thường xuyên phải cúi mặt nhẫn nhục cam chịu, đôi
khi cũng vùng lên tranh đấu, đòi đuổi sư nhà nước, giành chùa cho chân tu. Vụ
biểu tình của các tín đồ chùa Láng Hà Nội cách đây ba năm là một ví dụ. Trong
tối hôm đó, công an đã bắt giam trên một trăm tín đồ.
Vậy tôi xin trở lại lý do khiến tôi không đi lên chùa từ gần hai
thập kỷ nay, sau kỷ niệm đau buồn với sư cụ tôi không còn muốn nhìn thấy một
lần nữa bọn”thầy chùa đểu”.
Nhưng chưa hết.
Tôi không đi lễ chùa cũng còn vì chùa chiền giờ đây đầy rẫy bọn
“đao phủ” đi “đánh quả” thần, phật. Gọi là “đao phủ” vì chính lũ người đó trước
đây đã ra lệnh phá đình chùa, đuổi sư sãi, vặt cổ vặt tay tượng phật làm củi….
giờ đây chúng lại xì xụp hương khói hơn tất thẩy mọi người.
Vì sao có sự đổi hướng quay chiều? ….
Tôi sẽ trả lời tường tận nhưng trước hết, để tránh rơi vào lối ám
chỉ chung chung tôi xin nêu dẫn chứng:
– Một là, những người dân Huế cỡ trung niên hẳn chưa quên câu ca
này:
Bùi San cùng với Trần Hoàn:Hai thằng ngu ấy phá đàn Nam Giao
Bùi San: bí thư tỉnh ủy. Trần Hoàn: trưởng ty văn hóa. Công trình
chung của họ là hủy diệt một di tích lịch sử nơi xưa kia các vua Nguyễn tế Trời
Đất và tiên vương. Sau này, ông Trần Hoàn ra làm bộ trưởng Bộ Văn hóa, vợ con
ông ta xem bói từ Nam ra Bắc, khấn lễ mọi nơi, đặc biệt lễ hậu là Bia Bà để cầu
cho ông được”vững vàng”. Riêng tôi, tôi nhìn thấy ông nhiều lần cắp cặp đứng
trước cổng nhà các vị”Bộ Chính trị”. Quả là một cuộc hiệp đồng tác chiến; vợ
con ông đi đút lót”thần, phật” còn ông đi hầu hạ các”thánh sống”để ông được duy
trì thêm 4 năm trên ghế bộ trưởng vì ông đã già lại quá nhiều khiếu kiện, cấp
trên của ông đã chấm ông “vào sổ hưu”.
–
Hai là, thời kỳ Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư Đảng, ngoài chiến dịch”Thanh Hóa
hóa bộ máy cầm quyền” ông ta đã tranh thủ đào bới ngân khố quốc gia để xây dựng
lại, mở mang hoành tráng đền thờ Lê Lai, tin tưởng đó là tổ tiên trực tiếp, là
thần hộ mạng cho mình.
– Ba là, vài năm gần đây nhiều người họ Trần vênh vang tuyên bố
rằng họ Trần sắp sửa bước vào thời kỳ “đại phát” vì Trần Đức Lương vừa cho xây
khu mộ cổ họ Trần tại Thái Bình. Khu mộ này sẽ được xây theo thế “rồng phục”
sao cho ít nhất, chín đời họ Trần sẽ liên tục “làm vua”, v.v. và v.v.
Theo logic, ngày nào chế độ độc tài này còn tồn tại thì tất thảy
bọn cầm quyền họ Miêu họ Thử họ Ngưu họ Mã …. sẽ lần lượt vét ngân khố quốc gia
để xây dựng mồ mả đền miếu cho riêng dòng tộc của chúng với một chủ đích hoặc
ngụy trang hoặc lộ liễu: Duy trì quyền lực.
Quyền lợi, đó là căn nguyên sự quay chiều đổi hướng của kẻ cầm
quyền. Marx và Lénine hết sài được thì quay sang “đầu tư, đánh quả” thần, phật.
Hạng người ti tiện, lòng tham ngùn ngụt như vậy làm gì có “tâm hồn tôn giáo”?…,
nhất là một tôn giáo có quá nhiều yêu cầu đạo đức, cấu trúc trên tinh thần khắc
kỷ như đạo Phật? … Không phải vô cớ mà so với đạo Hồi và Thiên Chúa giáo, đạo
Phật có ít tín đồ hơn. Con đường dốc khó trèo. Con đường dốc ấy làm sao tương
hợp được với bọn cởi áo đao phủ khoác áo cà sa điềm nhiên như diễn viên thay
trang phục sân khấu, không một chút ngượng ngùng, không mảy may hối tâm, không
một lần thành khẩn trước tha nhân.
Lẽ ra, chính quyền Việt Nam phải xin lỗi dân chúng một cách công
khai, một cách thanh thật, một cách nghiêm khắc vì tội ác phá đền chùa lăng
miếu, đào bới san ủi mồ mả tiền nhân của chúng sinh. Nếu họ cải tâm họ đã phải
làm điều đó trước khi đặt chân lên thềm những đền chùa mà dân chúng gom góp xây
dựng lại.
Nhưng
cái ngã mạn của kẻ cầm quyền khiến lương tâm họ mù tối. Họ không cần xin lỗi ai
bởi vì họ tự nhận là “Đảng thần thánh và vĩ đại”. Và vì “thần thánh và vĩ đại”
họ đã thản nhiên làm cái việc mà cổ nhân từng cảnh báo:
“Thế gian có mặt mũi nào
Đã nhổ lại liếm làm sao cho đành”
Tôi chuyển sang mục thứ hai: Tôi là phật tử theo kiểu của riêng
tôi. Không đi lễ chùa đã đành, tôi cũng không tin tuyệt đối vào lòng từ bi. Đối
với tôi, lòng từ bi không thể độc hành. Lòng từ bi phải bước song song với một
trí tuệ sáng suốt và khả năng chiến đấu chống lại điều ác.
Khi lòng từ bi không được rọi chiếu dưới ánh sáng trí tuệ, nó dễ dàng
đưa ta đến tai họa. Chỉ cần nhớ lại tích “Đường Tam Tạng đi lấy kinh” là đủ. Đã
bao nhiêu lần vị sư phụ này mắc lừa bọn yêu quái, niệm chú để xiết chặt vòng
kim cô làm Tôn Ngộ Không đau đớn vật vã điên cuồng. Và cũng chớ nên quên rằng
bao nhiêu lần ông ta mắc lừa, bấy nhiêu lần Tôn Hành Giả đi giải cứu.
Khi thiếu khả năng chiến đấu chống lại cái ác, lòng từ bi của
chúng ta biến thành chất dầu nhờn, bôi trơn cỗ máy nghiền của loài ngạ quỷ và
chính cỗ máy này sẽ nghiền nát chúng sinh. Một dân tộc hiền hòa như dân tộc Tây
Tạng đã mất nước vì thiếu khả năng chiến đấu. Quân lính Trung Quốc không chỉ
xâm chiếm, tàn phá đất nước Tây Tạng mà còn đổ than hồng vào đầu vào họng các
nhà sư và tra tấn họ bằng tất cả những hình thức tra tấn thời Trung cổ.
Thêm
một ví dụ nữa: Ai cũng biết ở Khơ-me đạo Phật là quốc giáo. Vậy mà chính tại xứ
sở này nạn diệt chủng đã xảy ra. Hơn hai triệu người bị giết dưới chính quyền
Khơ-me đỏ. Thê thảm thay, rất nhiều cuộc tán sát man rợ lại xảy ra chính tại
các chùa. Nơi thờ cúng linh thiêng biến thành địa ngục và giờ đây, thành một
thứ bảo tàng lưu giữ đầu lâu của các nạn nhân.
Với nghiệm sinh, tôi xin góp một dẫn dụ nhỏ. Năm 1991, trong gần
tám tháng tù, tôi nhớ nhất câu này:
– Chị sẽ được ra tương ớt! Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!
Không
phải vì câu nói được lặp đi lặp lại mà vì thái độ của những người nói. Họ có
một vẻ hài lòng đáng sợ, một sự điềm nhiên đáng sợ. Tôi không thù ghét họ: một
đại tá, một đại úy, một trung úy. Có lẽ về bản chất họ không phải người ác
người xấu. Nhưng họ đã được đào tạo để làm cái việc”nghiền người khác ra tương
ớt”. Vì thế, đối với họ, việc nghiền ai đó ra tương ớt là phận sự, là phương
tiện sinh tồn, giống như người thợ phay bào một con ốc thép hoặc người đầu bếp
xào món rau.
– Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!
Mỗi lần nghe câu nói đó, tôi đọc thấy trên gương mặt họ niềm hạnh
phúc thanh thản của “Gã nông phu vừa cày xong thửa ruộng, Ngả mình trên nếp cỏ
ngủ ngon lành”.
Đương nhiên, họ chuẩn bị mọi sự để cho tôi ra”tương ớt”. Nhưng
không may cho họ, một tuần sau cuộc đảo chính ở Nga thất bại, thành trì của chủ
nghĩa xã hội sụp đổ tan tành, cả ê-kíp ba người hỏi cung tôi tái xanh tái xám,
mặt họ hiện lên nỗi hoang mang thê thảm, không còn chút tự tin.
Họ phải dừng tay, không dám cho tôi ra “tương ớt”…. Và rồi, với 95
triệu franc viện trợ không hoàn lại của chính phủ đảng Xã hội Pháp, nhà nước
cộng sản đã thả tôi ra….
Hơn một thập kỷ trôi qua, tôi vẫn không quên hình ảnh”tương ớt”.
Vì cỗ máy nghiền con người ra tương ớt vẫn tồn tại. Và nó tiếp tục nghiền những
người khác. Cả một đội ngũ”thợ nghiền” tiếp tục nuôi sống bản thân cũng như vợ
con họ bằng nghề nghiệp này. Liệu các vị có thể dùng lòng từ bi hỉ xả như vũ
khí tối hậu và duy nhất để làm thay đổi cỗ máy nghiền này chăng???….
Tôi không tin.
Vì thời gian hữu hạn, khả năng con người cũng hữu hạn.
Vì sự tập nhiễm là bản năng thứ hai có sức mạnh ghê gớm mà chỉ
riêng lòng tốt không đủ để đổi thay.
Vì
lẽ đó, cuộc đấu tranh của Phật Tử cũng như của giáo dân không thể chỉ tựa trên
sức mạnh của lòng từ ái. Cuộc đấu tranh nào cũng phải có chiến lược và chiến
thuật, tùy cơ ứng biến. Và dù đứng dưới bóng Phật hay bóng Chúa, con người cũng
cần có một bộ óc phán đoán phân tích sắc bén cộng với một khả năng đủ cho việc
chống lại cái ác, bên cạnh lòng hỉ xả từ bi,
Tôi
là phật tử theo kiểu của riêng tôi vì tôi không bao giờ chủ trương đạo Phật trở
thành “quốc giáo”, tôi đấu tranh cho một nền dân chủ đích thực mà nền dân chủ
đích thực chỉ cho phép tồn tại một nhà nước thế tục trong đó tất thảy các tôn
giáo đều được bảo vệ một cách bình đẳng nhưng trước hết mọi tín đồ đều có nghĩa
vụ làm công dân xứng đáng.
Với tôi, chỉ có một nền dân chủ đích thực cho phép thay đổi thường
xuyên các chính phủ thối nát, lạm nhũng mới cho phép các tôn giáo tồn tại đúng
với tư cách tôn giáo, đền chùa và nhà thờ mới tồn tại như những chốn thiêng
liêng nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của cõi người mà không bị biến thành đồn
bốt bảo vệ cho quyền lực nơi đám cường hào trá hình ức hiếp người tu hành và
bóc lột chúng sinh.
Bây giờ, là một câu hỏi có tính riêng tư:
– Cơ duyên nào đưa bà đến cửa thiền?
Tôi xin trả lời:
– Sự đưa dẫn của số phận.
Đúng như vậy. Tất cả những ngả rẽ lớn trên đường đời, tôi không
trù tính. Tất cả, đều xảy ra như những ngẫu nhiên. Nói một cách bóng bẩy hơn
suốt phần đời tôi đã trải qua là tạo phẩm dưới bàn tay vô hình của số phận.
Tuổi thơ, tôi không mơ ước làm nghề viết văn. Trưởng thành tôi cũng không hình
dung được có ngày tôi trở thành kẻ thù số 1 của chế độ này. Tương tự như thế,
chưa bao giờ tôi cố ý đi tìm đọc giáo lý nhà Phật.
Sau
cái chết của cha tôi 1992 trong tôi bỗng nảy sinh nhu cầu siêu hình. Vì sao,
chính tôi cũng không rõ. Có điều, tôi biết chắc chắn rằng đời người thường chưa
chất những ngộ nhận, những nhầm tưởng, những bí ẩn, những che giấu…. tất cả
những gì mà ta thường gọi là “bờ lú bến mê”. Trong quan hệ giữa con người với
con người, những mê lú thường đem lại khổ đau, hờn oán. Thâm tình càng sâu, khổ
đau càng lớn. Bởi vì, chỉ những người ta yêu thương mới có khả năng làm cho ta
đau đớn. Phật tổ Như Lai dạy:”Con cái là những sợi xích bằng vàng”. Với tôi, sự
thật dạy thêm vế đối:”Cha mẹ là những chiếc cùm bằng ngọc”. Trong gia đình tôi,
tồn tại một nguyên tắc “Gia pháp cao hơn quốc pháp”. Vì lẽ đó, trong hơn một
thập kỷ cha tôi đã áp dụng với tôi mọi hình thức kỷ luật quân đội để ép tôi
sống với người chồng cũ, vì “bỏ chồng là điếm nhục gia phong”…..Có lẽ vì những
ẩn ức đó tôi bỗng có nhu cầu siêu hình sau cái chết của ông, dù người âm kẻ
dương chúng tôi vẫn là cha con và vẫn có nhu cầu trò chuyện. Cũng chính vì
những ẩn ức đó cuộc gặp gỡ và thờ phụng Phật bà Quan Âm đối với tôi là một hạnh
duyên, một may mắn vĩ đại và thần bí.
Là người viết văn tôi biết rằng với thời gian và qua thời gian tất
thảy các nhân vật lớn thuộc mọi tôn giáo đều được thần thoại hóa. Nhưng cho dù
tước bỏ mọi chi tiết huyền hoặc, mọi sợi chỉ óng ánh thêu dệt chân dung tôi vẫn
thấy Phật Bà là một nhân cách vĩ đại tỏa sáng. Bị chinh phục hoàn toàn vì nàng
công chúa từ bỏ cuộc đời xa hoa của hoàng cung, chạy trốn sự truy đuổi của quân
lính triều đình, cưỡi hổ về phương Nam tu hành, tôi đi tìm đọc giáo lý nhà
Phật.
Vậy là con đường tôi đi ngược chiều với nhiều người khác. Tuy
nhiên phương Tây có câu:”Mọi con đường đều dẫn đến Roma”.
Tôi tin rằng có nhiều con đường khác nhau dẫn đến tôn giáo nói
chung cũng như cửa Phật nói riêng. Tùy theo duyên phận từng người, họ có thể
dấn thân vào hành trình đó sớm hay muộn, lâu dài hay ngắn ngủi, sâu hay nông,
thành thực hay chiếu lệ, v.v.
Đối
với tôi, đạo Phật đem lại nhiều chân lý vĩnh hằng: Tính vô thường của Tồn Sinh,
luật ly hợp của con người, vòng quay Sinh Diệt,v.v. Nhưng trước tất thảy mọi
triết thuyết, đạo Phật dạy ta xử lý ra sao trong các mối mâu thuẫn nan giải của
đời người. Lịch sử cá nhân của Quán Âm Bồ Tát đem cho tôi một sức mạnh mới mẻ
và sự thanh thản triệt để trong tâm hồn. Tôi hiểu là từ ngàn xưa những con
người vĩ đại đã giải quyết ra sao mối mâu thuẫn giữa các thế hệ đặt trong bối
cảnh tình huyết nhục.
Tôi
hiểu rằng ngoại trừ ngày cha mẹ đặt ta vào cõi đời, con người phải tự mình sinh
đẻ ra mình, và lần sinh trưởng thứ hai này mới thực sự quyết định cho nhân cách
cũng như sự nghiệp.
Tôi hiểu rằng không phải vinh quang cũng không phải chiến thắng mà
chính là Tình Yêu và sự Hy Sinh nâng con người lên cao.
Và tất thảy những ý tưởng ấy được chắt lọc ra khi tôi đọc “Chuyện
Quan Âm”. Cho nên tôi như được hồi sinh khi tẩy xóa mọi ẩn ức, thanh lọc tâm
hồn. Tôi cúi đầu trước vong linh cha tôi vì hiểu rằng chính ông và chỉ ông mới
tạo ra tôi nhưng tôi vẫn đi đúng con đường tôi đã chọn, không mảy may nao núng.
Tôi cũng không bao giờ ép duyên hay can thiệp vào đời tư của các con tôi. Và
bài học lớn lao ấy tôi học được từ Phật bà Quan Âm. Ngài chính là cơ duyên đưa
tôi đến cửa Thiền.
Cuối
cùng, để cảm ơn tất cả những ai đã quan tâm hỏi tôi, nhất là các Phật tử tôi
xin phép nói rằng:
Tôi vẫn mơ ước có một ngày, khi lũ lợn bẩn thỉu bị đuổi khỏi đền
chùa, mọi nơi thờ cúng linh thiêng được trả lại cho các chân tu những người mà
mệnh và nghiệp gắn kết họ với tôn giáo… Ngày ấy, nếu Trời còn cho sống tôi sẽ
lại “vãn cảnh chùa”, để thưởng thức mùi hương thuần khiết, thanh cao của hoa
mộc hoa sói, hoa lan…. những loài hoa chỉ được phép trồng nơi thiêng liêng
hương khói.
Dương
thu Hương
__._,_.___
Sổ Tay Ký Thiệt kỳ 93
Sư quốc gia, sư quốc doanh
Pháp sư Giác Đức và GS Nguyễn Ngọc Linh ngồi xe lăn đi "hầu tòa"
Sư quốc gia, sư quốc doanh
Pháp sư Giác Đức và GS Nguyễn Ngọc Linh ngồi xe lăn đi "hầu tòa"
Gần đây có nhiều bài được phổ biến kêu ca về những tệ nạn dưới mái
chùa, cả ở Việt Nam lẫn hải ngoại. Nào là chùa tổ chức nhạc hội nham nhở, nào
là bài bạc xổ số, nào là sư hát nhạc tình, sư uống bia… và người ta cho rằng
những cảnh “mạt pháp” này đều do sư quốc doanh gây ra. Nhưng, sư quốc doanh là
gì?
Cách nay khá lâu, Nhà văn Dương Thu Hương, một cựu đảng viên CSVN,
đã viết một bài dài về tình trạng Phật giáo tại Việt Nam, trong đó có đoạn viết
về sư quốc doanh như sau:
“Cách đây chừng mười bảy mười tám năm, một ngày Xuân tôi đi viếng
cảnh chùa. Ngôi chùa đó nằm gần phủ Tây Hồ. Trên đường tới phủ rẽ tay phải
chừng non trăm mét là tới. Tôi không còn nhớ rõ tên chùa mặc dù đó là nơi trước
khi xảy ra sự việc năm nào tôi cũng tới, khoảng một hai tháng một lần, siêng
năng nhất là mùa xuân và mùa Thu. Đó là ngôi chùa cổ còn may mắn sót lại sau
những cơn đốt phá đình chùa đền miếu theo chủ trương”tiêu diệt tàn dư phong
kiến” của chính quyền cộng sản. Không có gì đặc biệt ở ngôi chùa ấy, ngoài một
mảnh vườn nhỏ vừa trồng đào vừa trông mai. Có lẽ cảnh tượng thân ái của những
cây đào và cây mai chen vai, thích cánh cuốn hút tôi vào mùa xuân và khi mùa
thu đến, đám cành trần trụi khẳng khiu vươn lên trong lặng lẽ cũng mang lại một
vẻ đẹp u sầu và nghiêm cẩn, vẻ đep ta thường gặp ở mọi ngôi chùa cổ xứ Bắc.
“Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt
chân lên bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào với
chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát cháo ăn dở ở
một góc phản khô đét lại. Nhà ‘sư nữ’ ngoại tam tuần mắt long sòng sọc, tay nắm
cổ người bệnh lắc, miệng rít lên:
– Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ!
Sư cụ đã quá yếu không động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng
như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ hung hãn:
– Mày chết đi.
Tôi định lui ra nhưng cô ta đã nhìn thấy tôi.
Quá muộn cho cả đôi bên.
Hẳn cô ta không ngờ có kẻ đột nhập vào “ngang hông” bởi thông thường khách thập
phương phải qua sân đi vào chùa chính. Cô ta không biết rằng tôi quen mọi ngõ ngách
và thường đi tắt qua nhà ngang vào chùa sau để hầu chuyện sư cụ. Không thể mở
miệng”mô phật” như lần trước cô ta ném cho tôi một cái nhìn giận dữ và thách thức
rồi ngoay ngoảy quay đi. Tôi ngồi xuống phản với sư cụ. Cụ không mở mắt nổi và
giọng nói đã đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Đó là người đã xuống tóc từ thời
chính quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua mọi thăng
trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để lưu giữ các chân tu
ở lại, thay cụ chủ trì. ‘Nhân sự’ do ‘bên trên’ đưa xuống.
Vậy cái gì là ‘bên trên’? quyền lực nào áp chế những người tu hành
và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa chiền xứ sở?
Chẳng có gì bí mật cả, ‘bên trên’ là A 25,
Cục bảo vệ Văn hóa thuộc Tổng cục 1 Bộ Nội vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật giáo Việt Nam,
để trấn giữ chùa toàn quốc.” (ngưng trích)
Và hải ngoại? Theo ước tính không chính thức thì đang có khoảng 4
ngàn sư quốc doanh ở hải ngoại và đang gây ra những cảnh “mạt pháp” ở nhiều
nơi.
Sư quốc doanh
Sư quốc doanh
Riêng tại Virginia, cách đây 7, 8 năm có ông sư quốc doanh Thích Thông Kinh gây ồn ào một
dạo. Ông này có tên thật là Đoàn Công Thành, bí danh Đông Điển, có giấy công vụ
ghi rõ: “được đảng cử ra nước ngoài với nhiệm vụ phân hóa sự đoàn kết chống cộng
sản trong các cộng đồng và tôn giáo người Việt hải ngoại, đặt trụ sở giáo dục
hoạt động cho đảng bộ, tạo cơ sở thương mại xuất nhập khẩu, kinh tài cho đảng
bộ.”
Bị phanh phui lý lịch có bằng cớ rõ ràng với giấy tờ và hình ảnh hiển nhiên, “sư” Thông Kinh trở về
Việt Nam và nghe nói đã chết, chắc chắn đã
sa địa ngục vì tuy khoác áo cà-sa và có pháp danh là “Thông Kinh” nhưng là… thông
kinh Mác-Lê chứ không phải thông Kinh Phật.
Hiện nay, không ai biết rõ có bao nhiêu “sư Thông Kinh Mác-Lê”
được A-25 cài vào các chùa ở hải ngoại, nhưng tại nhiều ngôi chùa đang xảy ra
những xáo trộn rất đáng cho mọi người tị nạn cộng sản quan tâm, trong đó có
Chùa Giác Hoàng ở thủ đô Washington, ngôi chùa đầu tiên được những người tị nạn đầu tiên xây
dựng ở hải ngoại chỉ vài tháng sau Tháng Tư Đen năm 1975.
Và bây giờ, 41 năm sau, Thầy Giác Đức, người có công đầu tạo dựng ra
Chùa Giác Hoàng, già yếu bệnh hoạn, đang phải ngồi xe lăn ra “hầu tòa” vì bị
một số người nhân danh “hội đồng quản trị” của chùa kiện để trục xuất Thầy ra
khỏi Hội.
Pháp sư Thích Giác Đức, xuất gia từ năm lên tám và đã nổi tiếng là
một nhà “Sư Quốc gia” trong những năm đầy xáo trộn trên chính trường miền Nam
vào thập niên 1960 khi chùa chiền bị Việt cộng xâm nhập lũng đoạn, thao túng.
Thầy là một nhà sư uyên bác, đã từng du học Hoa Kỳ và giảng dạy tại Trường Cao
Đẳng Quốc Phòng và Đại Học Chiến Tranh Chính Trị thời VNCH.
Sau 30.4.1975, Thầy Giác Đức là một trong những người Việt tị nạn
đầu tiên đặt chân lên nước Mỹ, và chỉ vài tháng sau đã cùng một số người dựng
nên ngôi Chùa Giác Hoàng giữa thủ đô Washington, nhờ tài năng, uy tín, tầm nhìn
xa của Thầy và, chưa kể đóng góp tiền riêng để mua đất lúc ấy gần hai trăm ngàn
Mỹ-kim. Nay ngôi chùa được đánh giá vài triệu.
Hiển
nhiên, không có Thầy Giác Đức thì không có ngôi Chùa Giác Hoàng, và nếu muốn, khi
ấy Thầy có thể làm giấy tờ để giữ ngôi chùa làm của riêng, nhưng Thầy đã lập ra
“Công-đồng Giáo-hội Phật-giáo tại Mỹ” (The Buddhist Congregational Church of America,
viết tắt là BCCA) để quản trị Chùa, đâu có ngờ bây giờ bị chính những người
đáng lẽ phải nhớ ơn Thầy kiện ra tòa để chiếm chùa.
Từ Boston, Thầy Giác Đức đã phải đáp máy bay lên xuống Washington
DC nhiều lần để hầu tòa. Có lần đã bị xuất huyết bao tử, bất tỉnh, xuýt đi theo ông Nguyễn
Ngọc Bích, một trong những người bị kiện như Thầy, và đã “vỡ tim mà chết” trên
một chiêc máy bay từ Washington tới Manila vào
đầu tháng 3 vừa qua,
sau
khi bi ông luật sư của nguyên đơn hành hạ suốt 5 tiếng đồng hồ trong cái thủ tục được gọi là “deposition” (hỏi
đáp).
Pháp sư Thích Giác Đức là một nhà tu đức trọng tài cao, và do
duyên nghiệp, đã lập gia đình vào năm 1981 và rời Chùa Giác Hoàng đi Boston để
phục hưng một dòng tu khác của đạo Phật cho phép nhà tu lập gia đình đã hiện
hữu tại Việt Nam từ đời Vùa Trần Nhân Tôn, và ngày nay đang thịnh hành tại nhiều quốc gia, trong đó phổ biến nhất là tại Nhật Bản.
Rời Chùa Giác Hoàng hơn 30 năm, Thầy
Giác Đức cũng chưa yên thân và dù già yếu cũng phải chấp nhận “ăn thua” với
những người cũng không “trẻ” gì hơn mình nhưng lòng còn sùng sục tham sân si.
Lên tiếng trước tòa chiều ngày 26 tháng 4, Thầy Giác Đức đã không
cầm được lòng, bật khóc và nghẹn ngào nói lớn: “Không làm chùa cũng khổ, mà làm
chùa cũng khổ. Tôi phạm tội gì mà bằng này tuổi và bệnh hoạn vẫn phải bị
lôi ra trước tòa... Những người nhân danh Phật giáo mà kiện thưa thày, Phật tử
đánh Phật giáo thì ai chết đây?”
Thầy
Giác Đức đã làm cả tòa xúc động. Trong những phiên tòa suốt hai tuần qua, các
cụ đã lần lượt được gọi lên để được luật sư hai bên đối chất, nhiều cụ đi một
bước phải có người dìu, nói không ra tiếng, thở chẳng ra hơi. Chứng kiến cảnh này, mấy ai
tránh khỏi thở dài.
Có cụ sau mấy tiếng đồng hồ bị quay như dế,
lảo đảo bước ra cửa còn bị Phật tử chặn lại vặn hỏi: “Tại sao đi kiện làm gì? Vì tiền hay vì chính trị?” Và, cụ cúi đầu lặng
lẽ tiếp tục bước đi lảo đảo.
“Quan tòa”, một bà da trắng mắt xanh, chắc
cũng không thích thú gì với vụ kiện thưa của các cụ nên một lần nữa, trước khi
chấm dứt phiên tòa ngày 26 tháng 4, lại kêu gọi các cụ nên tìm một phương
thức nào đó để thu xếp với nhau cho êm đẹp hơn là để “người ngoài” phân xử.
Trước đây, ngày 5 tháng 2, nữ Thẩm phán Beck
cũng đã dành ra một buổi để hai bên luật sư nói chuyện với nhau nhưng không đi
đến đâu vì thái độ cứng rắn của luật sư bên nguyên. Nay, bà Beck lặp lại lời
kêu gọi “điều đình” (compromise) và cử một người trung gian để hai bên
ngồi lại với nhau một lần nữa vào ngày 5 tháng 5 sắp tới, tiếp tục hòa đàm.
Không biết bên đi kiện (nguyên đơn) đã “thấm
mệt” và… vàng mắt chưa, còn các cụ bên bị đơn thì chỉ muốn vụ kiện cáo
này chấm dứt sớm ngày nào hay ngày ấy vì lý do rất đơn giản: tiền. Càng kéo dài
thì càng tốn tiền luật sư: mỗi giờ 300 đô. Chạy tiền bở hơi tai mà vẫn không đủ
để trả những cái “bills” do luật sư gửi tới.
Nói đến tiền thù lao
luật sư, nhiều Phật tử đang thắc mắc tiền cúng Phật của họ ở Chùa có bị
đem…cúng cho luật sư hay không? Và, nếu có thì có chính đáng và hợp lệ hay không?
Về vấn đề này Pháp sư Giác Đức nói: “Không bên nào có quyền lấy tiền Phật tử
cúng Chùa để trả cho luật sư vì vụ tranh tụng này là thể hiện của lòng tham, sân,
si. Xin đừng nhân danh Đạo Pháp để phạm luật ‘Tín thí nan tiêu’”.
Phán quyết của tòa tư
pháp chưa biết bao giờ mới có, nhưng bản án của “tòa công luận” thì đã thấy rõ:
Khu dành cho người dự khán trong phòng xử được chia làm hai, bên phải 25 ghế
bên trái 25 ghế, ở giữa là lối đi. Hầu hết những người tới dự khán theo dõi vụ
Chùa Giác Hoàng là Phật tử đã ngồi chia phe: Phe bên “bị” chọn bên phải từ
cửa vào luôn luôn đông đảo, đôi khi hết ghế. Phe bên “nguyên” ngồi bên trái chỉ
lèo tèo năm, bảy người.
Ký Thiệt
__._,_.___
No comments:
Post a Comment